Mai Hưng Trung (sinh năm 1990), thường gọi Trung Mai, là kiến trúc sư mang hai quốc tịch Việt Nam và Pháp. Trung Mai từng ba lần giành giải Europan – cuộc thi kiến trúc uy tín dành cho các kiến trúc sư trẻ dưới 40 tuổi tại châu Âu. Anh thành lập Hà Nội Ad hoc và Ad hoc Practice vào năm 2020, như một nền tảng thiết kế kiến trúc dựa trên nghiên cứu lý thuyết và học thuật. Năm 2024, Trung Mai được trao giải thưởng Seed 2024 từ Quỹ Prince Claus vì những sáng tạo và hoạt động có trách nhiệm xã hội, ảnh hưởng tích cực trong bối cảnh văn hóa-nghệ thuật địa phương. Hiện anh là giảng viên thỉnh giảng tại Trường Kiến trúc Quốc gia Versailles (ÉNSA Versailles), Pháp. Kiến trúc sư Trung Mai có hai tác phẩm được chọn trưng bày tại Biennale Kiến trúc Venice lần thứ 19 (2025).
Xin chào anh Trung Mai, được biết anh từng có khoảng thời gian học tập và làm việc ở châu Âu (chủ yếu tại Pháp, Đức) trước khi quay về Hà Nội – nơi mà đô thị luôn trong trạng thái vận động nhanh với nhiều thành tố như quá khứ và đương đại va đập lẫn nhau. Trong hành trình dịch chuyển từ các đại đô thị về Hà Nội, điều gì đã luôn thôi thúc anh lấy Hà Nội làm trung tâm trong các nghiên cứu sáng tạo của mình?
Thời gian làm việc ở châu Âu về bản chất cho tôi một cái nhìn bao quát hơn về hệ thống kiến thức trong kiến trúc nói riêng và văn hóa nói chung. Hiểu hơn về cách mà xã hội phương Tây vận hành, đồng nghĩa với việc hiểu hơn về bối cảnh phương Đông – đặc biệt là ở Việt Nam, và suy nghĩ làm sao có thể gắn nó vào hệ thống kiến thức chung.
Khi đi càng nhiều thì mình mới hiểu rằng không có một mô hình kiến trúc hay đô thị nào có thể coi là kiểu mẫu. Sự áp dụng rập khuôn hay so sánh khập khiễng mô hình của một xã hội này vào một xã hội khác có thể coi là một sai lầm. Ngay cả khi người Pháp trong thế kỷ 19 muốn biến Hà Nội thành một phiên bản của Paris, họ cũng phải tìm cách thích ứng mô hình kiến trúc hay quy hoạch vào bối cảnh nhiệt đới của Việt Nam. Tính thích ứng dựa vào sự nắm bắt, hiểu biết về bối cảnh là điều tiên quyết. Để làm được điều đó, tôi vẫn nghĩ mỗi kiến trúc sư đều có một thành phố của riêng mình. Tôi không hẳn đã là người yêu hay hiểu về Hà Nội nhất, nhưng tôi nghĩ tôi khá gắn bó với thành phố này và biết mình có thể đem lại điều gì cho nó hay nó có thể đem lại gì cho mình. Mặc dù làm kiến trúc ở Hà Nội, từ khi xuất hiện nhiều hơn trên báo chí, tôi cũng bắt đầu đối diện với không ít ý kiến trái chiều – có khi là chỉ trích, hiểu lầm, thậm chí có những lúc bị quy chụp. Nhiều lần cũng muốn vào Nam nhưng nghĩ thì thấy thành phố này vẫn chưa từ bỏ mình. Ở đây, đi tới đâu cũng thấy nó truyền cho mình cảm hứng, nhìn đâu cũng thấy có thể lý thuyết hóa, cũng có thể gọi tên. Nó ngổn ngang đến thú vị, tùy tiện đến thích ứng. Có thể nhiều người nhìn nó như là vấn đề nhưng đối với tôi thì lại là giải pháp.
Giải pháp thích ứng không chỉ phù hợp tại Việt Nam mà còn đi xa hơn ra ngoài lãnh thổ. Những tùy biến thường ngày đều có thể trở thành những khả thể hay giải pháp cho tương lai. Nói một cách khác, đây là một đặc tính mà chúng ta có thể “xuất khẩu” được.
Anh từng chia sẻ ba tiêu chí về tính bền vững trong kiến trúc: khả năng thích ứng, đảo chiều, và tái sử dụng. Từ đó có thể thấy được sự chú tâm của anh đến việc diễn dịch bối cảnh của không gian, từ lịch sử, vật liệu đến cách con người sử dụng chúng. Vậy với anh, làm thế nào để một công trình, sau nhiều năm, kể cả khi chức năng thay đổi, thì công trình vẫn “ở lại” trong tâm trí người dân, trong ký ức đô thị, như một phần thực thể sống của nơi chốn đó? Anh có thể chia sẻ một số ví dụ được không?
Khả năng thích ứng vào môi trường khí hậu, văn hóa, địa chính trị là điều tiên quyết của kiến trúc đương đại trong bối cảnh của một thế giới đang dần kiệt quệ về tài nguyên, và chúng ta không thể xây dựng tới vô hạn. Mỗi công trình kiến trúc giờ đây không nhất thiết phải gói gọn trong một công năng nhất định mà nó có thể có nhiều hơn một cuộc sống. Tôi thường nghĩ về những vòng đời khác của công trình, những cấu trúc không gian có thể chuyển đổi công năng theo thời gian. Một căn nhà có thể trở thành một không gian công cộng hoặc ngược lại. Một bảo tàng, có thể một ngày nào đó chuyển hóa thành một không gian cộng đồng, đa nhiệm. Một ngôi trường có thể là một nơi trú ẩn khi có thiên tai. Một tòa nhà văn phòng chọc trời bị bỏ hoang có thể trở thành một nhà dưỡng lão kết hợp nơi nuôi dạy trẻ.
Để có thể bảo tồn một công trình kiến trúc lâu dài, điều quan trọng nhất là ngay từ những nét vẽ đầu tiên, người kiến trúc sư đã phải tính đến những khả thể trong tương lai mà công trình sẽ biến đổi. Tất nhiên tôi không muốn nói rằng kiến trúc sư phải là nhà tiên tri, nhưng có thể là người lường trước được sự thay đổi của bối cảnh và chuẩn bị cho những khả thể đó dựa trên sự quan sát những gì sẵn có.
Tôi nghĩ về tương lai nhiều hơn là quá khứ, và càng không phải tuýp người hoài cổ. Tôi tin rằng mỗi công trình ở một giai đoạn nào đó đều gắn với ký ức tập thể của một hay nhiều thế hệ, và sẽ khá bất công nếu chúng ta tìm cách so sánh ký ức của thế hệ này quan trọng hơn thế hệ khác. Có những công trình khi tôi sinh ra và lớn lên nó đã ở đó, nhưng không có nghĩa là thế hệ ông bà hay con cháu tôi họ đều phải gắn bó với nó khi mà nó chưa chắc đã thuộc về ký ức của họ. Tòa nhà Hàm Cá Mập tại Hồ Gươm, thiết kế bởi kiến trúc sư Tạ Xuân Vạn, có lẽ là một minh chứng khá rõ ràng cho luận điểm trên. Có những khoảng cách giữa cách nhìn nhận và định vị về di sản giữa các thế hệ khác nhau. Có những người mong muốn trả lại không gian công cộng cho Hồ Gươm và quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục như trước khi tòa nhà được xây dựng, vì đó là Hà Nội mà họ từng biết và gắn bó, còn đối với thế hệ của tôi, khi sinh ra và lớn lên đã biết một Hồ Gươm với Hàm Cá Mập như một điều tất lẽ dĩ ngẫu, sự gắn bó cũng sẽ khác. Và đối với tôi, việc bàn tán về việc nó xấu hay đẹp, đúng nguyên lý hay sai nguyên lý không thật sự quan trọng.
Tuy nhiên, một ký ức tập thể xuyên suốt các thế hệ không phải là điều bất khả nhưng có lẽ cần nhiều thời gian để mọi người có thể chấp nhận nó. Ví như Nhà thờ Đức Bà Paris (Cathédrale Notre-Dame de Paris), khi nó bị cháy, tôi vẫn nhớ có cả hàng triệu người tiếc thương và điều đặc biệt hơn cả là rất nhiều trong số họ chưa bao giờ nhìn thấy nó ngoài đời, họ chỉ biết đến công trình qua phim ảnh hay những áng văn. Tôi vẫn nhớ đã có rất nhiều luồng dư luận trái chiều về điều này.
Mặc dù vậy, tôi vẫn nghĩ, họ hoàn toàn có lý do để tiếc thương nó vì đơn thuần, công trình là di sản của cả nhân loại và một phần là ký ức tập thể của rất nhiều thế hệ, nền văn minh, sắc tộc nên ngay cả khi chúng ta không thật sự có mối liên hệ về mặt vật lý, nhưng về mặt tinh thần là có. Tình cảm của con người dành cho đô thị là một điều không dễ để diễn giải và lượng hóa, nó có thể rất cá nhân nhưng cũng có thể là của cả một tập thể. Và tôi cũng không nghĩ sẽ có một công thức nào để đạt được điều đó. Công trình sẽ tự tìm thấy đời sống của nó.
Anh thường tái sử dụng vật liệu cũ, đôi khi là cả kết cấu từ công trình sẵn có. Anh tin rằng kiến trúc cần “nối dài” những gì đã tồn tại, thay vì thay thế chúng?
Chắc không chỉ mình tôi mà hẳn phải tới hơn 90% những người thực sự làm kiến trúc trong thế kỷ 21 đều có cùng quan điểm. Nó khá hiển nhiên trong một môi trường xây dựng với quá nhiều điều vô nghĩa đang diễn ra hàng ngày do bị chi phối bởi các tập đoàn tư bản. Không có nghĩa là tôi tin vào quá khứ hơn tương lai, nhưng tôi nghĩ rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cũng có thể tìm thấy cách thức để đối thoại hay ứng xử với những điều đang có sẵn, thay vì áp đặt một cách duy ý chí. Đó cũng chính là một trong những tuyên ngôn của chủ nghĩa tùy biến – ad hocism.
Trong các công trình của anh, ánh sáng thường không phải là một yếu tố phụ trợ về chức năng mà như một nhân vật. Vậy anh nhìn nhận như thế nào về ánh sáng ở các dự án của mình?
Ánh sáng đối với tôi là một dạng vật liệu, một phần của cấu trúc vật lý hay một cách đối thoại. Bởi bản thân tôi, tôi rất thích bóng tối, và thứ ánh sáng mà tôi sử dụng thường là để nói về bóng tối hay những câu chuyện mà nó bao trùm. Trong “The Grid”, ánh sáng dẫn dắt câu chuyện và định hướng sự quan sát của người xem. Trong “Reincarnated Grid”, ánh sáng lại là một phần giãn nở, khuếch đại của cấu trúc vật lý, một sự chuyển hóa từ mặt bằng sang diện đứng.
Trong “The Grid” và “House of Forest” có phần đề cao tính tự do của yếu tố con người. Đơn cử như trong “The Grid”, người xem có thể đi xuyên qua, vòng quanh, đứng giữa cấu trúc – cho thấy không gian mang hơi hướng tương tác hơn điều tiết hành vi. Trong các thực hành của mình, anh có chủ đích “dự báo” hành vi con người, hay để không gian mở và người xem tự viết tiếp?
Bạn có những nhận xét khá tinh tế, đúng nhưng có thể chưa đủ. Tôi không chỉ đề cao tính tự do của con người mà còn của thiên nhiên, cuộc sống hoang dã. Trong dự án “House of Forest”, tôi muốn hướng tới một thứ kiến trúc với sự can thiệp tối thiểu của con người, hay nói đúng hơn là mang đến một thứ kiến trúc có thể lụi tàn hay biến mất trong tự nhiên cây cỏ, có thể lẩn vào cảnh quan sau một cơn bão, có thể trở thành nơi cư trú của những loài chim di cư, nơi con người tìm đến để nương náu, trú ẩn hay đơn thuần là hủy hoại nó để làm niềm vui. Đó là một cấu trúc có thể biến đổi cả hình hài hay công năng. Kiến trúc có thể thích ứng như một cơ thể sống phụ thuộc vào nơi chốn, khí hậu hay văn hóa bản địa.
Xét ở góc độ vĩ mô nơi con người đang ở giai đoạn Anthropocene (Kỷ Nhân sinh) – một kỷ nguyên địa chất mới bị chi phối bởi các tác động của con người lên hành tinh chúng ta, đồng thời, ở phạm vi Hà Nội – một thành phố có quá nhiều sự mở rộng và dịch chuyển trong lòng đô thị, đâu là điều khiến anh vừa trăn trở, vừa hy vọng trong các sáng tạo của mình?
Kỷ Nhân sinh là một từ khóa thịnh hành gần đây trong giới kiến trúc và học thuật, đồng thời nó vẫn đang gây khá nhiều tranh cãi. Hà Nội không thật sự đã phải là thành phố điển hình cho những tác động mạnh mẽ tới tầng địa chất do khai thác công nghiệp, vì đơn thuần, thành phố chưa bao giờ thực sự công nghiệp hóa theo cách định nghĩa của phương Tây.
Hà Nội là một thành phố đa tầng, như một tấm da bò được viết đi viết lại bởi nhiều lớp người, nhiều thế hệ khác nhau. Hệ quy chiếu của mỗi thế hệ lại có những đặc trưng thời đại mà họ thuộc về. Sự thiếu vắng được công nhận hay biến mất của di sản là minh chứng của sự thiếu vắng đối thoại mang tính thế hệ. Những khu tập thể, những công trình kiến trúc của thời kỳ hiện đại, đang dần nhường chỗ cho những hệ quy chiếu mới về cuộc sống phồn vinh được định nghĩa bởi những tập đoàn tư bản. Sự biến mất hay phá hủy không hoàn toàn xấu. Điều đáng bàn là sự tiếp biến sẽ xảy ra sau đó và những con người đang muốn thay đổi sẽ diễn ngôn thế nào, tuyên ngôn của họ là gì. Liệu có đủ để chúng ta đánh đổi hay không. Nếu những câu hỏi như trên đều có những câu trả lời thỏa đáng thì có thể sự thay thế lại được coi là tích cực. Điều tôi lo ngại nhất là không có một sự đối thoại mở trong cộng đồng, mà chỉ có những hành động từ một phía với những thỏa thuận ngầm của một nhóm người.
Trong công việc của mình, tôi mong có người nghe mình nói và cho mình làm đúng việc của kiến trúc sư. Nói cách khác, có những khách hàng mà mình rất trân trọng, vì họ không chỉ có tầm nhìn mà còn rất cởi mở trong lắng nghe và đối thoại. Bởi kiến trúc sư nếu không thể hiện thực hóa lý tưởng của mình thì mãi vẫn sẽ phần nào đó tự ti. Kiến trúc không nhất thiết phải dẫn đến việc xây dựng. Có rất nhiều “kiến trúc sư giấy” thành danh trong thập niên 80, 90. Nhưng ở thời điểm hiện tại, tôi nghĩ điều đó không còn khả dĩ. Dù vậy, tôi vẫn mong gặp gỡ những khách hàng muốn cùng tôi hiện thực hóa những lý tưởng trên giấy.
Nếu một ngày nào đó, các công trình của anh đều biến mất (về hình hài, vật chất), anh muốn người ta nhớ đến điều gì?
Chắc cũng tương tự với việc nếu một ngày chúng ta biến mất, điều gì sẽ còn lại. Tôi hay nghĩ tới việc này như phản ứng của tính tò mò nhưng tuyệt nhiên không trông đợi điều gì. Một ngày khi các công trình đều biến mất, tôi nghĩ có thể nó đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Mỗi người sẽ có một cách nhớ về nó, yêu hay ghét bỏ nó bằng những cách khác nhau. Có thể công trình đúng trong quá khứ nhưng sai trong tương lai. Có thể sai trong quá khứ nhưng đúng trong hiện tại, hay sai trong hiện tại nhưng đúng trong tương lai. Chỉ cần mọi người vẫn nói về công trình của mình, tức là nó vẫn còn sống. Nếu kiến trúc không đi vào thơ ca, điện ảnh hay tôn giáo, sự nhớ nhung chắc chỉ diễn ra cùng lắm trong một hay hai thế hệ. Vì thế đôi khi sự biến mất hay phá hủy lại là phần vĩnh cửu cuối cùng và duy nhất của kiến trúc.
Xin cảm ơn kiến trúc sư Trung Mai đã chia sẻ những suy nghĩ trong hành trình làm nghề, cũng như cách anh định nghĩa kiến trúc không chỉ bằng hình hài vật chất mà còn bằng những khả thể mở ra trong ký ức tập thể, đối thoại liên thế hệ và sự tiếp diễn đầy bao dung của nơi chốn.