ART & CULTURE

Bầu không khí (Kỳ 2): Con tim, lý trí và kiến trúc của Khoa Vũ

Sep 04, 2025 | By LUXUO

Một cuộc trò chuyện chạm đến từng tầng sâu cảm xúc, từng lớp lý trí của Khoa Vũ. Hành trình kiến trúc của anh phải chăng là những cuộc thí nghiệm cộng hưởng để thiết lập một ngôn ngữ thống nhất, và thức tỉnh những vần thơ trong tâm thức?

Bầu không khí là loạt bài phỏng vấn, tìm về những rung cảm vô hình nhưng cốt yếu trong kiến trúc. Chúng tôi tin rằng, kiến trúc không chỉ là khối hình, mà còn là một bầu không khí. Như Lão Tử đã từng minh triết: “Khoét cửa nẻo làm buồng then, nhờ khoảng không mới có công dụng của buồng then”. Chính cái “không” ấy, khoảng trống vô hình, lại là phần quan trọng nhất, định hình trải nghiệm và cảm xúc mà kiến trúc mang lại.

Trong loạt bài này, chúng tôi sẽ trò chuyện cùng các kiến trúc sư Việt, lắng nghe sẻ chia về những khoảnh khắc mà họ đã “thở” cùng không gian, những trầm tư và niềm vui khi kiến tạo. Đây là nơi ta tìm về sự ôn nhu giản dị và tình cảm ẩn chứa trong bầu không khí kiến trúc, mở ra một góc nhìn tĩnh về cái đẹp vô hình nhưng có sức neo giữ qua thời gian.

Khoa Vũ là một kiến trúc sư gốc Việt đang sinh sống và làm việc tại New York, Mỹ. Anh tốt nghiệp Thạc sĩ Kiến trúc loại ưu tú tại Đại học Harvard, nơi anh hiện đang giảng dạy. Thiết kế của anh nhận được nhiều giải thưởng quốc tế có uy tín trong lĩnh vực kiến trúc, như Araldo Cossutta Prize và Architecture MasterPrize.

Tư duy thiết kế của Khoa Vũ giao thoa giữa tính duy lý của hình khối xây dựng và tính hiện tượng học của trải nghiệm, tập trung vào kiến trúc lấy thiên nhiên và con người làm trung tâm. Thực hành của anh dựa trên “Grayscale” (Khoảng xám), một phương pháp luận khám phá các không gian “ở giữa” và các ngưỡng chuyển tiếp giữa vật thể, tòa nhà, kết cấu và bầu không khí. Cách tiếp cận này được ứng dụng trong các dự án gần đây tại Việt Nam như Ts Veil và Ts Lunar Cavern.

Xin chào kiến trúc sư Khoa Vũ, trong hành trình từ những cảm nhận không gian nguyên sơ đến khi được đào tạo bài bản, có bao giờ anh nhận ra một khoảnh khắc “bừng tỉnh”, khi lý trí kỹ thuật và cảm xúc bản năng về không gian tìm được tiếng nói chung trong kiến trúc?

Với câu hỏi này tôi nghĩ mỗi kiến trúc sư sẽ có một câu trả lời khác nhau, tùy vào từng giai đoạn trên hành trình của họ. Nhưng tựu trung lại, nó luôn gắn liền với những trải nghiệm mang đậm dấu ấn cá nhân. Với tôi, khoảnh khắc “bừng tỉnh” mà bạn nói, suy cho cùng, chính là khoảnh khắc của sự cộng hưởng.

Sự cộng hưởng này không phải là một khám phá đơn lẻ, mà là một nhận thức được bồi đắp qua nhiều giai đoạn. Ở giai đoạn đầu đời, khi chưa có nền tảng kiến thức về kiến trúc, Đà Lạt chính là ký ức về không gian mạnh mẽ nhất trong tôi. Đà Lạt của những năm tháng tôi lớn lên, có một sự hòa quyện gần như hoàn hảo, giữa nơi chốn, con người và kiến trúc. Bầu không khí nhẹ nhàng và có phần mơ màng ấy, có quyền năng hơn bất kỳ lý thuyết nào tôi được học sau này. Đó là một cảm nhận thuần khiết.

Sau này, khi sang Mỹ, tôi bước vào một quá trình học tập rất dài và bài bản. Tôi nhận ra rằng, đối với một kiến trúc sư, bên trong chúng ta tồn tại song song hai thư viện. Một là thư viện của cảm xúc và ký ức, nó vô cùng rộng lớn, chứa đựng những trải nghiệm như tôi có với Đà Lạt. Và hai là thư viện của ngôn ngữ thiết kế, ban đầu rất nhỏ bé. Hành trình của tôi, vì thế, là một quá trình kỷ luật để trau dồi thư viện ngôn ngữ và học thuật kia, không phải để thay thế, mà là để tìm ra một phương thức chuyển tải những cảm xúc sâu thẳm trong thư viện ký ức thành hình hài kiến trúc.

“Bạn không thể bắt đầu từ một logic thuần túy rồi hy vọng sẽ tìm thấy cảm xúc ở cuối con đường. Bạn phải bắt đầu bằng một rung động, dù là mơ hồ nhất”

Anh vừa nhắc đến việc tìm kiếm một phương thức chuyển tải. Vậy trải nghiệm học tập tại Thụy Sĩ đã mang đến cho anh một phương pháp luận cụ thể nào để tạo nên “bầu không khí” của một không gian, không phải từ những ý niệm trừu tượng, mà từ chính hệ thống vật lý gồm kết cấu, vật liệu và hình khối?

Khoảnh khắc giao thoa giữa kỹ thuật và cảm xúc thực sự đến với tôi trong thời gian học trao đổi tại Thụy Sĩ, dưới sự hướng dẫn của kiến trúc sư Christian Kerez. Tôi tìm đến ông vì nhận thấy ở kiến trúc của ông một sự cân bằng tuyệt vời giữa lý trí và nghệ thuật. Những công trình của Kerez có một hệ kết cấu cực kỳ lý tính, nhưng lại gợi lên một cảm giác rất thơ. Tôi luôn tự hỏi, tại sao?

Nền tảng của kiến trúc là không gian, nhưng Kerez không đi theo hướng hiện tượng học thuần túy. Ông có một lập luận rất hay rằng bầu không khí của một không gian được tạo ra bởi chính hệ thống vật lý của nó là hình khối, kết cấu, vật liệu. Giống như một ngọn nến, vùng không khí ấm áp và ánh sáng lung linh xung quanh nó là một trải nghiệm, nhưng chính sự tương tác vật lý của ngọn lửa với oxy mới tạo ra không gian trải nghiệm đó. Vậy, làm thế nào để kiến tạo một trải nghiệm kiến trúc một cách có phương pháp, một cách hợp lý?

Trong studio của Kerez, chúng tôi đã đảo ngược hoàn toàn trật tự thiết kế thông thường. Thay vì bắt đầu từ địa điểm, từ công năng, chúng tôi khởi đầu với 23 định nghĩa về không gian. Chúng không phải là chân lý, mà là những tiền đề để khám phá đặc tính của không gian. Mỗi sinh viên chìm đắm trong việc nghiên cứu ngôn ngữ hình khối thuần túy, để những định nghĩa đó dẫn lối. Chỉ sau khi đã nắm bắt được đặc tính của không gian, chúng tôi mới ứng dụng nó vào một công trình cụ thể.

Có một chi tiết nhỏ nhưng ảnh hưởng đến tôi rất nhiều đó là chúng tôi không diễn họa thành phối cảnh 3D. Thay vào đó, chúng tôi làm những mô hình lớn, rồi chụp ảnh lại. Không phải là những bức ảnh sạch sẽ, hoàn hảo, mà là những bức ảnh chụp lại cái tinh thần, cái phối cảnh thật của không gian bên trong mô hình. Nó giống như một sân khấu, không hề dối trá. Bạn làm việc trực tiếp với kết cấu, ánh sáng, hình khối, bạn đối diện trực tiếp với không gian bạn tạo ra. In những bức ảnh đó ra khổ lớn A1, nó gần như một xác lập về việc bước vào không gian ấy.

Đó chính là khoảnh khắc mọi thứ kết nối. Cái lý trí trong việc tìm ra một phương pháp, một hệ thống để kiến tạo không gian, đã trở thành công cụ để diễn dịch bầu không khí.

Anh từng dùng hình ảnh “giải phương trình bằng tay phải, vẽ bằng tay trái” để mô tả công việc của mình. Trong quá trình đó, trật tự và mối quan hệ giữa hai “bàn tay” này diễn ra như thế nào? Phải chăng lý trí và logic của “bàn tay phải” là công cụ để tìm ra chất thơ; hay chất thơ của “bàn tay trái” phải tồn tại từ trước, và lý trí chỉ là công cụ để bảo vệ và hiện thực hóa nó?

Câu hỏi này chạm đúng vào cái lõi của sự giằng xé, cũng là cái đẹp của việc thực hành kiến trúc. Nhưng có lẽ, tôi nhìn nhận quá trình này hơi khác một chút. “Bàn tay trái” không thực sự “tìm thấy” chất thơ từ phương trình của “bàn tay phải”. Đúng hơn là, nó phải mang chất thơ từ trước, và nhiệm vụ của cả hai bàn tay là bảo vệ và nuôi dưỡng nó.

Cái mà tôi luôn tìm kiếm và xem là nền tảng để đánh giá mọi quyết định trong thiết kế, là sự cộng hưởng. Một ý tưởng, một giải pháp, dù hợp lý đến đâu về mặt kỹ thuật, nếu nó không tạo ra sự cộng hưởng với cảm xúc ban đầu, với cái tinh thần cốt lõi của không gian, thì nó mãi mãi chỉ là một chi tiết được thêm vào, một kẻ ngoại cuộc lạc lõng. Sự cộng hưởng chính là thước đo. Nó cho tôi biết liệu quyết định đó có đang phục vụ cho cái hồn của công trình hay không.

Tất nhiên, sự cân bằng đó mong manh vô cùng. Nó luôn biến đổi tùy thuộc vào từng dự án, từng bối cảnh. Có những lúc chất thơ phải lấn át lý trí để bảo vệ một cảm xúc nguyên bản. Cũng có lúc, lý trí phải thật mạnh mẽ để kéo cái thơ mộng về với thực tại khả thi. Quá trình này không phải là một công thức, mà là một sự đối thoại liên tục.

“Bên trong chúng ta tồn tại song song hai thư viện. Một là thư viện của cảm xúc và ký ức, nó vô cùng rộng lớn […]. Và hai là thư viện của ngôn ngữ thiết kế, ban đầu rất nhỏ bé”

Nó làm tôi nhớ Louis Kahn từng nói về một nhà thơ, rằng điều tiên quyết là anh phải là một nhà thơ đã, rồi sau đó mới dùng lý trí và mọi công cụ khả dĩ để hiện thực hóa vần thơ đó. Thứ tự này không thể đảo ngược. Bạn không thể bắt đầu từ một logic thuần túy rồi hy vọng sẽ tìm thấy cảm xúc ở cuối con đường. Bạn phải bắt đầu bằng một cảm xúc, một rung động, dù là mơ hồ nhất.

Khi quan sát kiến trúc của những người khác, tôi cũng nhìn nhận qua lăng kính này. Ví dụ, tôi nhìn vào một số công trình của Valerio Olgiati. Không thể phủ nhận chúng vô cùng kích thích về mặt trí tuệ. Cái cách ông ấy đặt một chiếc cột, tạo ra những mâu thuẫn đầy chủ ý, thách thức nhận thức của một kiến trúc sư. Nhưng tôi tự hỏi, liệu một người sử dụng bình thường có cảm nhận được điều đó không? Đối với tôi, những công trình ấy đôi khi đòi hỏi một “level” nhất định để có thể đối thoại, và cá nhân tôi không cảm thấy cái rung động sâu sắc, cái kết nối nguyên sơ mà tôi tìm thấy trong những tác phẩm của Le Corbusier chẳng hạn.

Rốt cuộc, hành trình của người kiến trúc sư là một cuộc đấu tranh để giữ cho “bàn tay trái” và “bàn tay phải” cùng làm việc. “Bàn tay phải” với những “phương trình” của nó không phải là nơi sản sinh ra chất thơ, mà là công cụ để hiện thực hóa, để xây dựng nên cái khung xương vững chãi nhất cho chất thơ ấy trú nhình

Được biết gần đây anh và các cộng sự đã hoàn thành Ts Veil, một trong số ít các công trình tại Việt Nam mà anh tham gia thiết kế. Lớp vỏ của công trình này tựa như một tấm màn mềm mại, tạo nên những hiệu ứng đặc biệt về ánh sáng, sự riêng tư, và cả bầu không khí bên trong. Khi thiết kế “tấm màn” này, anh đã tìm cách dung hòa và cân bằng ba yếu tố đó như thế nào, để chúng mang một tiếng nói chung?

Đối với tôi, ba yếu tố bạn vừa kể, ánh sáng, sự riêng tư và bầu không khí, không phải là những ưu tiên riêng rẽ, mà chúng cùng hợp lại để tạo nên một điều duy nhất, một sự cộng hưởng. Nếu ngồi lại trong không gian đó, bạn sẽ cảm nhận được nó, một sự cộng hưởng với tinh thần của Sài Gòn, với cái “vibe” rất đặc trưng của thành phố này.

Công trình này là một dự án cải tạo. Khi người bạn thân của tôi, cũng là chủ đầu tư, tìm đến, anh ấy muốn đập bỏ hoàn toàn căn biệt thự cũ để xây mới. Phải thừa nhận, kiến trúc hiện hữu khi đó không có nhiều giá trị nổi bật. Tuy nhiên, tôi luôn có một suy nghĩ rằng, dù tốt hay xấu, một công trình khi bắt đầu tồn tại là nó đã trở thành một phần của ký ức đô thị. Vì thế, quan điểm của tôi là không phá bỏ. Thay vào đó, giữ lại phần khung và trao cho nó một linh hồn mới.

Tôi đã nghĩ về nhiều cách thức cải tạo. Có thể làm như kiến trúc sư David Chipperfield, tạo ra những can thiệp điểm xuyết như “châm cứu”. Hoặc tạo ra sự tương phản mạnh mẽ giữa cũ và mới như kiến trúc sư Zaha Hadid. Nhưng tôi cảm thấy những cách tiếp cận đó không thực sự phù hợp với bối cảnh và tâm hồn của Sài Gòn.

Xuất phát từ một quan điểm khác mà tôi đã học được qua kiến trúc sư Christian Kerez: sức mạnh lớn nhất của kiến trúc thường nằm ở trạng thái giao thoa. Vì vậy, tôi muốn tạo ra một kiến trúc có lớp vỏ là một không gian trung gian, một ngưỡng giao thoa, nơi kết nối và đồng thời phân định giữa đời sống đô thị ồn ã bên ngoài và không gian ẩm thực đậm tính xã hội bên trong. Lớp vỏ đó phải thật mềm mại, phải có chiều sâu và có tính “Khoảng xám” để đạt được tinh thần chuyển tiếp ấy.

Về cách thức, đây là phần lý tính của công trình. Lớp vỏ thực chất là một hệ hai lớp song hành. Lớp bên trong là một hệ kết cấu trừu tượng gồm cột và dầm, gợi đến tinh thần của kiến trúc châu Á. Lớp bên ngoài là “tấm màn” mà bạn thấy. Chính khoảng trống giữa hai lớp này đã tạo nên chiều sâu cho trải nghiệm.

Từ đó, một ý niệm nảy sinh trong tôi, tầng trệt của một ngôi nhà nên là một phần của thành phố, một “tấm voan” (the veil) chuyển tiếp nhẹ nhàng, nơi ranh giới giữa trong và ngoài được xóa nhòa. Sàn nhà tầng trệt khi ấy không còn là của riêng ngôi nhà nữa, mà đã trở thành một phần của vỉa hè, của đường phố.

Nó giống như khoảnh khắc đặc biệt trong một lễ cưới, khi cô dâu xuất hiện sau tấm màn voan. Bức màn của cô dâu không che giấu hoàn toàn, mà nó tạo ra một sự mập mờ vừa đủ để khơi gợi trí tưởng tượng, tạo ra một sự chờ đợi về trải nghiệm sắp diễn ra. Tấm màn của Ts Veil cũng vậy. Nó định hình một nghi thức, một trải nghiệm của việc bước xuyên qua lớp không gian chuyển tiếp, để rồi thực sự đắm mình vào không gian sâu hơn ở bên trong.

Trái ngược với cách làm phổ biến là trình bày nhiều phương án cho chủ đầu tư lựa chọn, dường như anh theo đuổi một con đường khác, đề xuất một phương án duy nhất. Điều gì tạo nên sức thuyết phục của chỉ một phương án đó?

Cho tới thời điểm hiện tại, đối với tôi, mỗi một công trình đều là sự khởi đầu lại từ vạch xuất phát, một cuộc thử nghiệm mà ở đó tôi không ngừng tìm kiếm phương án phù hợp nhất cho bài toán thiết kế. Có thể nhiều kiến trúc sư khác cũng đang giải bài toán tương tự như tôi, nhưng mỗi người lại chọn một con đường triển khai khác nhau. Với dự án Ts Veil, chúng tôi đã thử nghiệm rất nhiều, có vô số phương án được đặt ra. Nhưng tôi không phải là người thích công bố 50 phương án thử nghiệm rồi sau đó chỉ ra một phương án tốt nhất. Tôi tin rằng, một khi người kiến trúc sư đã quyết định đưa ra một phương án, thì đó phải là phương án hoàn chỉnh và trọn vẹn nhất trong suy nghĩ của họ tại thời điểm đó. Nó không cần những phương án khác để phản biện hay để chứng minh cho sự “tốt nhất” của mình.

Trong quá trình học ở Berkeley, có một câu nói mà đến giờ tôi vẫn luôn mang theo trong lòng, là lời của một người thầy – người đã tạo nền tảng để đưa tôi đến với Harvard sau này. Thầy nói: “Khoa, it’s never about the best answers”. Không bao giờ có câu trả lời hoàn hảo nhất, cái quan trọng là “the journey”, là cuộc hành trình. Đó không phải là khoảnh khắc bạn nảy ra ý tưởng ban đầu, mà là cả một quá trình dài đi xuyên qua nó, chắt lọc ngôn ngữ, vật liệu và cảm xúc để làm nên kiến trúc. Với dự án Ts Veil cũng vậy, đã có một khoảnh khắc, một điểm chuyển giao mà khi tôi nắm bắt được nó, tôi biết rằng “this is the one!”, chính nó!

Và rồi cuộc tìm kiếm lại tiếp tục, làm sao để xử lý tính tương phản, tỷ lệ, để chơi đùa với sự đối lập giữa kết cấu và phi kết cấu, và quan trọng là làm sao để tất cả những điều đó thích ứng được với đặc trưng thi công ở Sài Gòn.

“Khi công trình đã hoàn thành, nó sẽ tự tìm đến sự cân bằng thông qua quá trình tương tác với môi trường và người sử dụng, và dần sẽ nằm ngoài tầm kiểm soát của kiến trúc sư”

Tôi nhớ kiến trúc sư Michael Maltzan, mentor và là người mà tôi được làm việc sát cạnh và học hỏi rất nhiều sau khi tốt nghiệp, từng kể một câu chuyện rất hay về Le Corbusier, rằng khi Le Corbusier quay trở lại thăm một công trình của mình, ông thấy nó quá sạch sẽ, quá hoàn hảo và ông mong nó có được sự mộc mạc, có dấu vết của thời gian. Điều đó cho thấy, một khi cái cốt lõi, cái tinh thần nền tảng của công trình được giữ vững, thì những sự “không hoàn hảo” mà bạn trải nghiệm trong không gian đó lại chính là một phần của vẻ đẹp, của câu chuyện. Đi sâu hơn, Michael có chia sẻ với tôi: “As I continue practicing architecture, I become more interested in equilibrium than resolution” (Khi tiếp tục hành nghề kiến trúc, tôi quan tâm đến sự cân bằng hơn là sự giải quyết dứt điểm).

Tôi cho rằng nhận thức này rất thú vị và gợi mở nhiều suy nghĩ: kiến trúc thiết lập mối quan hệ tương tác giữa hình thể, môi trường, vật chất và con người để tạo nên một trạng thái cân bằng mới cho cả con người lẫn môi trường mà nó thuộc về. Khi công trình đã hoàn thành, nó sẽ tự tìm đến sự cân bằng thông qua quá trình tương tác với môi trường và người sử dụng, và dần sẽ nằm ngoài tầm kiểm soát của người kiến trúc sư.

Một kiến trúc sư giỏi là người có khả năng nhận ra, thiết lập và kích hoạt những mối quan hệ mới, tạo nên những trạng thái cân bằng mới thông qua kiến trúc, góp phần mang lại tác động tích cực cho con người, môi trường và văn hóa mà công trình gắn bó.

Tất nhiên, điều này còn tùy thuộc vào từng loại công trình. Một kiến trúc sư như Peter Zumthor, với xuất phát điểm từ một người thợ mộc, luôn đòi hỏi sự hoàn hảo gần như tuyệt đối của kỹ thuật thi công. Kiến trúc sư David Chipperfield cũng là người theo đuổi sự hoàn hảo đó. Nhưng trong một góc nhìn khác, tư duy logic và nghệ thuật xử lý không gian với nền tảng quá mạnh ở kiến trúc của Le Corbusier, thì chi tiết dù chưa chắc hoàn hảo, tinh thần của công trình vẫn được bảo toàn xuất sắc. Cách tiếp cận của mỗi người là rất khác nhau. Và tôi, tôi vẫn đang trên hành trình tìm kiếm ngôn ngữ kiến trúc của riêng mình.

Ngoài Ts Veil thì một công trình khác do anh thiết kế cũng gây được sự chú ý trong giới chuyên môn, căn hộ Ts Lunar Cavern. Anh gọi công trình này là “sanctuary” (cõi riêng). Khái niệm này gợi lên một không gian có chủ đích tách biệt khỏi thế giới bên ngoài. Những yếu tố nào, hình khối điêu khắc, sự tương phản ánh sáng, hay chất cảm vật liệu, đã được anh dùng để tạo nên cảm giác được bao bọc và tĩnh tại đặc trưng của một nơi chốn như vậy?

Dự án này là một cuộc đối thoại dài và sâu với chủ nhân ngôi nhà. Ban đầu, tôi khá e ngại vì đây là một dự án thiên về nội thất nhiều hơn là kiến trúc. Chủ nhà là một nghệ sĩ trẻ, có tư duy hiện đại và tài năng. Qua những cuộc trò chuyện, tôi phát sinh một sự hứng thú đặc biệt với dự án này. Tôi xem dự án này là cuộc tìm tòi cho định nghĩa và sự khác biệt giữa “a house” và “a home”. Câu hỏi chính mà tôi trăn trở là làm sao tạo ra được một ngôi nhà thoả mãn tinh thần và thể chất cho bạn một cách sơ nguyên nhất, nhưng vẫn mới lạ, đồng thời vun vén và truyền cảm hứng hàng ngày cho cá tính, cảm xúc và tư duy nghệ thuật của bạn.

Đối với tôi, định nghĩa về “nhà” là một điều rất riêng tư. Tôi tin mỗi kiến trúc sư đều cần phải tự đặt câu hỏi về bản chất của một không gian sống. Nó không thể chỉ là một cái “nhà” (house), mà phải là một “tổ ấm” (home), như cách kiến trúc sư Louis Kahn từng phân biệt. Nó phải là một nơi chốn tạo ra cảm giác thuộc về, cảm giác được bảo vệ, và đồng thời, là nơi kích thích sự sáng tạo. Không gian sống phải được cá nhân hóa để dệt nên một câu chuyện, một nền tảng cho đời sống tinh thần của người cư ngụ. Và dự án này, với tôi, chính là một quá trình cấu trúc hóa đời sống tinh thần đó.

Cảm hứng ban đầu quay về với hình ảnh nguyên thuỷ nhất của kiến trúc – hang động. Không phải là sao chép lại hình thù của một cái hang, mà là chắt lọc “cảm giác” của nó – cảm giác được bao bọc, được ôm ấp bởi một khối duy nhất, nơi ranh giới giữa sàn, tường và trần bị xóa nhòa. Tôi muốn tái định nghĩa những thành tố kiến trúc đời thường, đặt câu hỏi về chúng để tạo ra một ngôn ngữ mới lạ, được cấu thành bởi hai thứ.

Thứ nhất là thuộc tính của hang động: sự mềm mại, tính điêu khắc của không gian, và sự tương phản mãnh liệt giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng và vật liệu được sử dụng một cách mạnh mẽ để tạo ra những góc nhìn sâu thẳm hướng ra thành phố, biến khung cảnh bên ngoài thành một tiêu điểm được chiêm ngưỡng từ bên trong sự tĩnh lặng.

Thứ hai là cách tiếp cận về cấu trúc: Kiến trúc châu Âu thường xuất phát từ “subtraction” (sự trừ khối), tạo nên những không gian có tính điêu khắc, và “volumetric”(đặc khối) rất rõ ràng, như vẻ đẹp trong các công trình của Alvaro Siza. Nhưng ở đây, tôi muốn đạt được hiệu ứng đó bằng một phương pháp khác, phù hợp hơn với bối cảnh của mình. Ngôn ngữ của Ts Lunar Cavern được tạo ra từ sự xếp lớp, sự hòa điệu từ nhiều thành phần, giống như cách âm nhạc được tạo nên, một quá trình vừa lãng mạn, nên thơ, lại vừa chặt chẽ, lý trí. Dù là một công trình nội thất và không cần đáp ứng trực diện với khí hậu Việt Nam, nhưng chính cái tính “volumetric” qua các mảng khối được chạm đục, xếp lớp đã giải đáp được bài toán về một “cõi riêng”, một không gian của trải nghiệm sâu.

Trong Ts Lunar Cavern, anh đã tạo ra hai không gian vòm với hai sắc thái trải nghiệm hoàn toàn đối lập. Sự tương phản này dường như không phải là một lựa chọn thẩm mỹ đơn thuần, mà là một quyết định có chủ đích về mặt trải nghiệm kiến trúc. Anh có thể chia sẻ thêm về cách định nghĩa không gian bán công cộng và riêng tư đã dẫn dắt đến việc lựa chọn những ngôn ngữ vật liệu khác nhau cho từng khu vực?

Đó là một câu hỏi rất hay, nó tiệm cận với cách tôi suy nghĩ về kiến trúc. Tôi luôn tin rằng, có hai thứ luôn song hành và không thể tách rời, bản sắc xã hội của một thành phố và khí chất của vùng khí hậu nơi nó tọa lạc. Đây là bài học mà tôi đúc kết được qua những chuyến đi. Khi đến São Paulo, tôi đã vô cùng bất ngờ vì cảm giác thân thuộc đến lạ kỳ, cứ ngỡ như mình đang ở giữa Sài Gòn vậy. Dù nằm ở hai phía đối diện của đường xích đạo, nhưng chính điều kiện khí hậu tương đồng đã định hình nên một môi trường và một lối sống rất cởi mở, với nhiều lớp không gian đan cài vào nhau.

Quan điểm này được thể hiện rõ nét trong công trình Ts Lunar Cavern, nơi tôi muốn điêu khắc nên sự tương phản của trải nghiệm. Khi bạn từ ngoài phố bước vào, không gian bán công cộng đầu tiên chào đón bạn bằng một trải nghiệm rất trung tính, rộng mở và tinh khôi. Vật liệu ở đây gần như là trừu tượng, với những tương phản nhẹ nhàng về chất cảm trên nền trắng chủ đạo. Nó không chỉ là vữa, là xi măng, mà còn là ánh sáng và màu sắc. Không gian này có tác dụng xoa dịu bạn, gột rửa những bận rộn của đô thị để trả lại một sự tĩnh tại. Nhưng để đi sâu hơn vào nơi chốn riêng tư, bạn phải đi qua một không gian chuyển tiếp mang tính “nghi lễ”, chính là chiếc cầu thang xoắn. Nó là một bước ngoặt quan trọng, dẫn dắt bạn đến một thế giới hoàn toàn khác. Không gian bên trên tương phản tuyệt đối, nó riêng tư, sâu lắng và có phần tối hơn. Đây là nơi để ẩn mình, để kích thích sự sáng tạo.

Chính sự tương phản về trải nghiệm này đã quyết định ngôn ngữ vật liệu. Ở không gian riêng tư đó, tôi muốn một thứ gì đó có chiều sâu, có sự rung động của bàn tay con người. Tôi đã chọn một loại sơn có chất cảm đặc biệt (Venetian texture), nó không phẳng lì mà có sự biến thiên tinh tế. Vật liệu này cũng ảnh hưởng đến cách tôi khoét những ô cửa xuyên qua các lớp không gian, để từ trong mảng tường dày, bạn có thể nhìn xuống khoảng thông tầng, rồi nhìn ra ngoài thành phố. Một sự cộng hưởng được tạo ra.

Cuối cùng, tất cả những điều đó cũng chỉ xoay quanh một câu hỏi nền tảng về kiến trúc nhà ở, làm sao để tạo ra một kết nối sâu sắc và mang đậm dấu ấn cá nhân với thành phố, với nơi mà bạn gọi là nhà.

“Đối với tôi, định nghĩa về “nhà” là một điều rất riêng tư”

Thực hành kiến trúc tại Việt Nam luôn là một cuộc đối thoại giữa tư duy thiết kế đương đại và những điều kiện bản địa đặc thù. Anh làm thế nào để điều hướng giữa hai dòng chảy này, đặc biệt là liên quan đến trình độ thi công?

Đây cũng là một câu hỏi mà tôi luôn tự vấn trong mỗi dự án. Với tôi, kiến trúc không phải là một sự áp đặt, mà là một quá trình lắng nghe và cộng hưởng. Tôi học hỏi không ngừng từ những kiến trúc sư đi trước, những người đang tâm huyết hành nghề tại Việt Nam. Chính sự tương tác và đối thoại lâu dài với họ đã cho tôi một cái nhìn sâu sắc, một sự thấu cảm với bối cảnh Việt Nam.

Tất nhiên, thực hành trong bối cảnh này không phải lúc nào cũng dễ dàng. Chúng tôi đã đối mặt với một thực tế về sự chưa đồng đều trong trình độ thi công và kỹ thuật xây dựng. Nhưng thay vì xem đó là một rào cản, tôi lại thấy ở đó một vẻ đẹp riêng. Chúng tôi học cách làm việc với những gì đang có, tìm kiếm vẻ đẹp trong sự không hoàn hảo, tạo ra một thứ “kiến trúc của sự dung dị”, nơi chính những giới hạn lại trở thành nguồn cảm hứng để tạo ra những giải pháp bất ngờ và chân thật nhất. Đó là cách chúng tôi tạo ra những công trình có thể vận hành và tồn tại một cách hài hòa trong chính sự chưa cân bằng.

Tôi hình dung quá trình này như hai dòng chảy song hành, một dòng chảy từ “bên ngoài” và một từ “bên trong”. “Bên ngoài” là những tư duy, phương thức thiết kế và kỹ thuật mà tôi may mắn thu thập được trong quá trình học tập và làm việc ở nước ngoài. Nhưng chúng sẽ mãi chỉ là những lý thuyết ngoại lai nếu không tìm được cách bén rễ vào mảnh đất bản địa.

Đó là lúc dòng chảy “bên trong” lên tiếng. “Bên trong” là những cách thức xây dựng trọng kinh nghiệm – những giá trị được chắt lọc qua nhiều thế hệ, là linh hồn của vật liệu địa phương, là cách con người cảm nhận về nắng, về gió. Chúng tôi không cố gắng sao chép quá khứ, mà tìm cách chắt lọc những gì tinh túy nhất của nó.

“Nhiệm vụ của người kiến trúc sư, theo tôi, là phải chắt lọc những trải nghiệm của chính mình, những cảm giác tích lũy hằng ngày, sự tương phản khi tiếp xúc với các nền văn hóa khác nhau, để cô đọng lại thành một “chất liệu” tinh khiết nhất cho công trình”

Gần đây, tôi và Thiên, một người bạn thân và là nhà sáng lập TAA Design, đang thiết lập một nhóm nghiên cứu chuyên sâu với hy vọng đưa sự cộng hưởng này vào các dự án sắp tới một cách mạnh mẽ hơn. Dự án Ts Lunar Cavern là một ví dụ khởi đầu cho tinh thần đó, nơi chúng tôi nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ TAA để thử nghiệm những ý tưởng về sự đối thoại giữa cũ và mới, giữa kỹ thuật và cảm xúc. Chúng tôi đang nghiên cứu và thiết lập một số dự án mang tính dài hơi, sẽ công bố vào năm sau.

Kiến trúc được kiến tạo cho cơ thể và các giác quan. Khi anh hình dung về một không gian, những trải nghiệm cảm quan như âm thanh, ánh sáng, nhiệt độ, chất liệu… xuất hiện một cách tuần tự hay đồng thời? Và làm thế nào để một bản phác thảo, vốn chỉ là những đường nét, có thể chứa đựng bên trong nó cả linh hồn của vật liệu và phẩm chất của không gian?

Với tôi, tất cả những cảm giác đó không diễn ra tuần tự, mà hiện lên đồng thời trong một thể thống nhất – everything all at once! Đó có lẽ là điểm mạnh cốt lõi và cũng là đặc ân của trí tưởng tượng trong kiến trúc.

Khi tôi nghĩ về một không gian, một ý tưởng khởi lên sẽ ngay lập tức kéo theo một chuỗi câu hỏi liên đới và không ngừng: Ánh sáng ở đó sẽ như thế nào? Nó sẽ chạm vào bề mặt vật liệu kia ra sao? Âm thanh sẽ vang vọng hay được hấp thụ? Cảm giác khi ta hít thở trong bầu không khí ấy sẽ thế nào? Tất cả những truy vấn về âm thanh, ánh sáng, nhiệt độ, chất liệu… chúng không phải là những bước riêng rẽ, mà là một trải nghiệm tổng thể, duy nhất trong tâm trí.

Khi tôi phác thảo, đó không chỉ là việc tạo ra những đường nét. Với tôi, mỗi bản phác thảo là một “lát cắt tức thời” của trí tưởng tượng, một khoảnh khắc mà bên trong nó đã chứa đựng sẵn cả ánh sáng, âm thanh, và linh hồn của vật liệu. Trí tưởng tượng cho phép tôi nén tất cả những yếu tố đó vào một hình hài.

Nhưng trí tưởng tượng ấy không thể bay bổng nếu không được nuôi dưỡng bằng thực tế. Bạn phải thực sự trải nghiệm không gian, phải dùng chính cơ thể mình để “học” về kiến trúc. Đó là lý do vì sao kiến trúc của Tadao Ando lại có sức lay động lớn đến vậy, bởi nó được chắt lọc từ chính quá trình trải nghiệm không ngừng nghỉ của ông.

Nhiệm vụ của người kiến trúc sư, theo tôi, là phải chắt lọc những trải nghiệm của chính mình, những cảm giác tích lũy hằng ngày, sự tương phản khi tiếp xúc với các nền văn hóa khác nhau, để cô đọng lại thành một “chất liệu” tinh khiết nhất cho công trình. Tôi vẫn luôn trăn trở về những phân tích lý thuyết, về cách đôi mắt nhìn, làn da cảm nhận. Những cuốn sách có thể đặt ra cho chúng ta vô vàn câu hỏi, nhưng chúng không bao giờ cho ta một câu trả lời cuối cùng. Hành trình của kiến trúc, vì thế, là một cuộc tìm kiếm không hồi kết, một nỗ lực không ngừng để tìm ra cách biến những cảm giác vô hình ấy thành một không gian hiện hữu.

Xin cảm ơn kiến trúc sư Khoa Vũ đã dành thời gian cho cuộc trò chuyện này.

Thúc Đạt


 
Back to top