Nghệ thuật trong chiến tranh Việt Nam: 30 năm lịch sử qua những bức họa truyền cảm hứng
Trái ngược với bình luận của phương Tây về cuộc chiến Việt Nam, các nghệ sĩ đã tái hiện tinh thần cao cả của người lính – thông minh, tháo vát, quyết đoán và biểu cảm – trong thời khắc lịch sử đầy biến động.
Bị quân du kích cộng sản Việt Nam phục kích và bắt giữ, nhà báo Georges Petwhenier của Pháp là một trong số ít người phương Tây có cơ hội nhìn thấy các binh lính Cộng sản chiến đấu với lính Mỹ và quân Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông đã mô tả khu bảo tồn thiên nhiên rậm rập của họ trên thời báo New York xuất bản vào năm 1964.
“Nếu so sánh với rừng rậm Việt Nam thì vịnh Louisiane chỉ như một khu vườn của nước Anh. Vo ve tiếng muỗi, kiến và ve, những người lính phải tấn công một cách đau đớn bằng dao rựa, chui bò, leo trèo, băng qua dòng suối đầy đỉa. Không khác nào địa ngục trần gian,” – ông viết.
Tuy nhiên, những người nghệ sĩ Bắc Việt lại khắc họa những bức tranh thật khác về rừng rậm quốc gia và những người cộng sản trong dự án có tựa đề “Vietnam: The Art of War” (Việt Nam: Nghệ thuật Chiến tranh). Dưới đây là loạt ảnh cùng những phân tích của tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng.
30 năm lịch sử qua những bức họa truyền cảm hứng
Dự án được giám tuyển bởi những nhà nghiên cứu có quyền tiếp cận kho lưu trữ tại Witness Collection, một trong những bộ sưu tập nghệ thuật Việt Nam lớn nhất thế giới. Nhằm mục đích ghi lại lịch sử cuộc chiến gây chấn động thế giới dưới góc nhìn của người Việt, dự án thể hiện các tác phẩm “war art” (nghệ thuật trong chiến tranh) được thu thập trong suốt 30 năm qua. Trong đó, quân đội miền Bắc đã góp phần rất lớn vào việc thống nhất Việt Nam.
Khi đang diễu hành tại một vùng núi tỉnh Quảng Trị, nghệ sĩ thời cthiến Nguyễn Đức Thọ tình cờ nhìn thấy đội quân trong rừng rậm đang cung cấp thực phẩm cho các đơn vị pháo phòng không đóng quân ở gần đó. Liên tục bị máy bay ném bom B52 của Mỹ đe dọa, quân đội tập trung vào hai yếu tố quan trọng: ngụy trang và trú ẩn. Rừng lúc ấy mang đến nhiều cây xanh khổng lồ rỗng ruột giúp các chiến sĩ trú ngụ an toàn.
Trong khi nấu ăn cho binh lính, họ phải thật sự cẩn thận để tránh máy bay phát hiện thông qua làn khói từ bếp lò. Dù phía bên trong rỗng nhưng lá bên ngoài vẫn xanh. Vì vậy, cây rỗng là nơi trú lý tưởng của họ.
Cây không chỉ hoạt động như một nơi trú ngụ mà còn là chỗ để ngụy trang, là cái phễu để phân tán khói từ khu cắm trại quân đội. Nhờ lương thực có sẵn, bổ dưỡng và thậm chí ngon miệng, nó tạo ra sự khác biệt quan trọng giữa cuộc sống của lính Mỹ và Bắc Việt Nam. Những lính Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng Hòa thường phải tranh giành thức ăn vì chuỗi cung ứng bị cắt bỏ. Họ bị bệnh và ngày càng gầy guộc hơn. Trong khi đó, binh lính Bắc Việt lại có những bữa tiệc hân hoan.
Trong suốt sự nghiệp, họa sĩ Thọ thuộc trung đoàn pháo binh và cuối cùng gắn bó với Sư đoàn phòng không Hà Nội 361 trước khi chiến tranh kết thúc. Ông đã vẽ nhiều cảnh trong đó sản xuất và nấu ăn chiếm vị trí trung tâm. Từ những người lính từng là nông dân trồng rau trên vùng đất mỏng giữa hệ thống phòng không ở Hải Phòng, đến những người lính trên đường mòn Hồ Chí Minh nấu ăn trong dịp Tết Nguyên Đán, các tác phẩm của họa sĩ Thọ thể hiện sự tháo vát của quân đội Bắc Việt.
Ở dãy núi Trường Sơn, những người lính vẫn đùm bánh chưng và giết mổ lợn. Họ cũng làm xúc xích thịt lợn như khi ở nhà. Các nghệ sĩ kể về sự thoải mái khi nấu ăn ngay cả trong rừng rậm hoang vu. Tại một trạm y tế ở cửa hàng rừng Trường Sơn, nghệ sĩ Bùi Quang Ánh tái hiện lại cảnh ăn uống ngon miệng ngoài sức tưởng tượng. Ông Ánh dành phần lớn sự nghiệp của mình ghi lại con đường mòn Hồ Chí Minh, theo con đường tiếp tế ẩn giấu từ Hà Nội qua Lào, và vào Tây Ninh của miền Nam Việt Nam.
Đường mòn thường được người lính Bắc Việt sử dụng để vận chuyển nguồn tài nguyên như xăng dầu. Việc này mất rất nhiều thời gian và sức lực, chưa kể thường xuyên bị máy bay tấn công, đốt cháy. Vì vậy, vào thời điểm đó, người đứng dầu tổng cục hậu cần đã đưa ra giải pháp mới bằng cách sử dụng đường ống ngầm để vận chuyển xăng dầu về phía Nam, đến cuối đường mòn Hồ Chí Minh. Tất cả các đường ống tạo thành chiều dài hơn 1.000 km.
Cũng với con đường mòn này, họa sĩ Ánh không chỉ nhìn thấy huyết mạch hậu cần cho quân đội, mà còn chứng kiến một đất nước tiếp tục sống và phát triển thay vì chỉ nghiền nát sự tồn tại. Các hang động cung cấp nhà hát vòm tròn tự nhiên cho các buổi biểu diễn âm nhạc. Trong khi đó, rừng rậm được sử dụng như một sàn diễn độc đáo và quy mô. Một lần nọ, vào đêm trăng sáng vằng vặc gần nhà ga, một đoàn nghệ thuật trở về từ Cuba bắt đầu hát những bài hát mà họ đã từng học ở đó như Guantanamera và Besame Mucho.
Khi điệu hát Besame Mucho vang lên, cả đàn ông và phụ nữ nhảy điệu Rumba cùng nhau giữa rừng Trường Sơn. Có lẽ, trên thế giới này, hiếm thấy một điệu nhảy tình tứ và nồng nàn đến thế giữa khu rừng, dưới những tán lá cây nham nhở, ánh trăng sáng êm dịu, và tiếng bom từ xa xa.
Bên cạnh việc ghi lại những tác phẩm chi tiết về cuộc sống quân đội, các nghệ sĩ thời chiến cũng có thể bình luận về những thực tế thoát khỏi kẻ thù trong cuộc xung đột. Họa sĩ kiêm nhà báo Phạm Thanh Tâm là phóng viên kỳ cựu của Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946 – 1954) và chứng kiến thủy quân lục chiến Mỹ ở căn cứ chiến đấu Khe Sanh. Nhớ lại kinh nghiệm về trận Điện Biên Phủ vào năm 1954, họa sĩ thấy điều tương tự tại Khe Sanh. Việc xây dựng và bảo vệ căn cứ tại Khe Sanh đã bị Hoa Kỳ gây khó khăn vì địa điểm này không có bất kỳ lợi thế chiến lược nào. Những ngọn đồi xung quanh khiến vị thế càng trở nên mạo hiểm.
Trái ngược với bình luận phương Tây về cuộc chiến tranh chống Mỹ, các nghệ sĩ Việt Nam đã tái hiện tinh thần cao cả của người Việt trong thời khắc lịch sử. Đó là những cá nhân thông minh, tháo vát, quyết đoán và biểu cảm.
Trong giấc mơ thống nhất đất nước của lãnh tụ cách mạng Hồ Chí Minh, các nghệ sĩ chiến tranh đóng vai trò quan trọng như những người lính cầm vũ khí. Văn học và nghệ thuật thuộc về cùng mặt trận.