ART & CULTURE

20 giám tuyển thay đổi cách nhìn của chúng ta về nghệ thuật – Kỳ 2

Jun 20, 2021 | By Art Republik

Vinh danh 20 vị giám tuyển nghệ thuật có ảnh hưởng quan trọng, tác động sâu sắc và góp phần định hình nghệ thuật đương đại thế giới trong suốt thế kỷ 20.

Ngày nay, từ “giám tuyển” gợi đến một nhân vật thông thái, người cầm lái tham dự các lễ hội nghệ thuật lưỡng niên (biennales) trên khắp thế giới. Nhưng công việc của chức danh này không phải lúc nào cũng hấp dẫn. Vào giữa thế kỷ 20, một nhóm nhân vật đã giúp định nghĩa nghề này như chúng ta biết ngày hôm nay, bằng cách làm việc không mệt mỏi ở hậu trường.

Tiếp nối kỳ I, mời bạn đọc tìm hiểu 20 giám tuyển có ảnh hưởng nhất trong lịch sử nghệ thuật (giới hạn ở những nhân vật đã qua đời hoặc không còn hoạt động).

11. Walter Hopps (1932 – 2005)

Là một chuyên gia của các nghệ sĩ bao gồm Ed Ruscha, Ken Price, Robert Irwin và Edward Kienholz, Walter Hopps là một nhân vật nổi bật trong nền nghệ thuật Los Angeles bắt đầu từ những năm hậu chiến tranh.

Đầu sự nghiệp của mình, ông đã mở phòng trưng bày Ferus, hoạt động tại thành phố từ năm 1957 đến năm 1966. Năm 1962, ông rời phòng trưng bày để gia nhập lĩnh vực thể chế (institutional sphere), đầu tiên là giám tuyển Bảo tàng Nghệ thuật Pasadena, sau đó trở thành giám đốc. Tại đây, ông đưa ra những nhân vật như Marcel Duchamp, Joseph Cornell và Kurt Schwitters với các triển lãm nhìn lại đầu tiên ở Hoa Kỳ, và ông đã gắn “Hội họa mới về các vật thể thường ngày”, được coi là cuộc khảo sát thể chế lớn đầu tiên về nghệ thuật đại chúng (Pop Art) của quốc gia.

Walter Hopps tại lễ trao tặng Bộ sưu tập Menil, ngày 4 tháng 6 năm 1987. Ảnh: Photo by Crossley & Pogue / Courtesy of Menil Archives, The Menil Collection, Houston

Nhưng ông được biết đến nhiều nhất với tư cách là giám đốc sáng lập của Bộ sưu tập Menil ở Houston, nơi ông làm việc với tư cách là giám tuyển nghệ thuật thế kỷ 20 tại bảo tàng. Trong những năm cuối sự nghiệp của mình, những nỗ lực giám tuyển của Hopps còn mở rộng đến Bảo tàng Whitney và Bảo tàng Guggenheim ở New York. “Tôi nghĩ rằng sự tương đồng gần nhất với việc sắp đặt một cuộc triển lãm trong bảo tàng là chỉ huy một dàn nhạc giao hưởng,” Hopps nói về sự phức tạp và sắc thái trong công việc của mình trong hồ sơ New Yorker năm 1991.

12. Pontus Hultén (1924 – 2006)

Rất lâu trước khi thế giới chú ý đến những tài năng giữa thế kỷ 20 như Andy Warhol, Robert Rauschenberg và Nam June Paik, Pontus Hultén đã theo dõi mọi bước đi của họ. Với tư cách là người đứng đầu Viện bảo tàng Moderna của Stockholm từ năm 1958 đến năm 1973, Hultén đã nâng tầm nghệ thuật vượt khỏi ranh giới mà có thể chưa được thực hiện trong một cơ sở nghệ thuật, như triển lãm She – A Cathedral (1966) của nữ nghệ sĩ Niki de Saint Phalle, một tác phẩm khổng lồ, điêu khắc đôi chân dài dạng ra của người phụ nữ và đã gây nên một sự tranh cãi.

Tuy nhiên, nhiều thành tựu của Hultén không chỉ giới hạn ở Bảo tàng Moderna, nơi đã trở thành điểm nóng dưới sự lãnh đạo của ông. Năm 1968, tại Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở New York, ông đã giám tuyển một triển lãm có sức ảnh hưởng “Cỗ Máy Được Nhìn Thấy Ở Cuối Thời Đại Cơ Khí”, trong đó đặt các bức vẽ của Leonardo da Vinci bên cạnh các tác phẩm điêu khắc động học của Jean Tinguely.

Ảnh: Courtesy Moderna Museet

Sau đó, Hultén tiếp tục trở thành giám đốc đầu tiên của hai cơ sở lớn, Trung tâm Pompidou ở Paris và Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại Los Angeles. Trong suốt thời gian đó, ông đã xây dựng một bộ sưu tập hàng trăm tác phẩm nghệ thuật, hiện đang được lưu giữ tại Moderna Museet, và đã truyền cảm hứng cho những giám tuyển khác xem triển lãm của họ như một loại hình nghệ thuật đối với chính họ. Khi Hultén qua đời vào năm 2006, giám tuyển Daniel Birnbaum nhận xét rằng, “hơn ai hết, [ông ấy] đã chất vấn các giới hạn của bảo tàng nghệ thuật đương đại ngay từ bên trong”.

13. Jean Leering (1934 – 2005)

Thành phố Eindhoven của Hà Lan hoàn toàn không phải là một điểm đến nghệ thuật cho đến khi Jean Leering giúp thay đổi bộ mặt nơi này khi còn lãnh đạo Bảo tàng Van Abbemuseum.

Từ năm 1963 đến năm 1973, Leering đã tổ chức các cuộc triển lãm mà đối với một số người, thậm chí không bao gồm nghệ thuật. Chẳng hạn, có “The Street. Một Hình Thức Chung Sống” tập trung vào các đường phố đô thị cũng như không gian xã hội – và gây ngạc nhiên cho cả Leering và các quan chức thành phố, đề tài đã thu hút một đám đông lớn.

Ảnh: Van den Bichelaar

Nếu bạn muốn công chúng của bảo tàng quan tâm đến nghệ thuật, bạn không chỉ nên mang nghệ thuật vào” Leering, người cũng từng phục vụ trong ủy ban quốc tế của Documenta 4 vào năm 1968, nói với giám tuyển Hans Ulrich Obrist trong một cuộc phỏng vấn năm 2002. Để bổ sung cho điều này, Leering đã đưa ra quan điểm là tiếp thu nghệ thuật làm cầu nối giữa các bộ môn, đặc biệt là các tác phẩm của El Lissitzky và các nghệ sĩ gắn liền với phong trào De Stijl đầu thế kỷ 20.

Để chứng tỏ rằng một người có thể tìm thấy thành công trong việc trưng bày tác phẩm, có thể không nằm trong các tiêu chuẩn đánh giá truyền thống về làm nghệ thuật, công việc có tư duy tương lai của Leering đã truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ giám tuyển trẻ, bao gồm Obrist.

14. Dorothy Canning Miller (1904 – 2003)

Dorothy Canning Miller là giám tuyển đầu tiên của Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở New York và bà đã làm việc chặt chẽ với Alfred H. Barr, Jr., bắt đầu từ năm 1934, khi bà được thuê làm trợ lý cho ông.

Giám tuyển Dorothy Canning Miller. Ảnh: Gettyimages.com

Là một nhà sưu tập đam mê các tác phẩm của Stuart Davis, Alexander Calder, Arshile Gorky và những người khác, Miller ở lại MoMA cho đến năm 1965. Khi làm việc với gia đình Rockefeller về bộ sưu tập nghệ thuật của họ, Miller được giao nhiệm vụ liên lạc với các nghệ sĩ khi bà gia nhập đội ngũ non trẻ của Barr.

Một tạp chí New York tưởng nhớ Miller, được xuất bản sau khi bà qua đời năm 2003, đã mô tả bà là “người mẹ ruột của cả thế hệ họa sĩ Mỹ, chủ yếu là nam giới”. Một trong những thành tựu giành được vương miện của Miller tại MoMA là triển lãm năm 1959 “16 Người Mỹ”, một trong chuỗi các buổi trình diễn tập trung vào các biên giới mới trong nghệ thuật Mỹ đang được khám phá bởi những người như Jasper Johns, Robert Rauschenberg và Frank Stella.

15. Grace McCann Morley (1900 – 1985)

Năm 1935, Grace McCann Morley, lúc đó 34 tuổi, trở thành giám đốc đầu tiên của cơ sở mà sau này được gọi là Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại San Francisco. Giám tuyển trẻ, người trước đây đã từng làm việc tại Bảo tàng Nghệ thuật Cincinnati, đã tiếp thu điều mà SFMOMA đã mô tả là “chiến lược dân túy” trong các cuộc triển lãm và nỗ lực giáo dục của bà tại cơ sở này.

Grace Louise McCann Morley là một nhà nghiên cứu về ảnh hưởng toàn cầu. Cô là giám đốc đầu tiên của Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại San Francisco và giữ vị trí này trong 23 năm kể từ 1935. Ảnh: Courtesy SFMOMA Archives

Dưới sự lãnh đạo của bà, bảo tàng đã có được cơ sở cho bộ sưu tập nổi tiếng thế giới của mình, và những năm đầu đã chứng kiến ​​các cuộc triển lãm mang tính bước ngoặt với các tác phẩm của Henri Matisse, Jackson Pollock, Arshile Gorky, Clyfford Still, Pablo Picasso và các tên tuổi khác.

Trong số những thành tựu của bà có thể kể đến mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với MoMA ở New York để mang đến những buổi trình diễn quan trọng cho khán giả trên khắp đất nước, bao gồm triển lãm tác phẩm Guernica của Picasso. Morley nói với San Francisco Examiner năm 1935 về quyết định giữ cơ sở mở cửa cho đến 10 giờ tối, được coi là một động thái triệt để vào năm 1935, “Chúng tôi đang bắt tay vào thử nghiệm dân chủ và mới này với hy vọng rằng chúng tôi xây dựng một lượng theo dõi của những người yêu thích nghệ thuật mà họ bận rộn trong ngày

16. Linda Nochlin (1931 – 2017)

Nhà sử học nghệ thuật Linda Nochlin được biết đến với quan điểm tiên phong về nữ quyền mà bà đã đưa vào học thuật. Bà cũng chính là tác giả cho bài luận mang tính đột phá “Tại Sao Không Có Nữ Nghệ Sĩ Vĩ Đại?” Được xuất bản trên tạp chí ARTNews năm 1971, kiểm tra sự thống trị của quan điểm nam giới da trắng trong lịch sử nghệ thuật, cách định nghĩa thiên tài nghệ thuật và cách nghệ sĩ nữ trong lịch sử đã bị đẩy ra lề.

Những nỗ lực trong công việc giám tuyển của bà bổ sung cho những dự án mang tính nghệ thuật-lịch sử. Năm 1976, cùng với Ann Sutherland Harris, bà đã tổ chức “Nữ nghệ sĩ: 1550–1950”, một cuộc khảo sát của Bảo tàng Nghệ thuật Los Angeles cho thấy rằng phụ nữ đã và đang sáng tạo nghệ thuật quan trọng cùng tầm với các đồng nghiệp nam của họ.

Linda Nochlin với nghệ sĩ Deborah Kass năm 2014. Ảnh: Clint Spaulding / Patrick McMullan / Sipa USA

Và vào năm 2007, cùng với Maura Reilly, bà đã giám tuyển cuộc triển lãm “Global Feminisms” ở Bảo tàng Brooklyn, trong đó nêu bật tác phẩm của các nữ nghệ sĩ không phải phương Tây như Lin Tianmao và Lee Bul.

Một người bạn của các nghệ sĩ bao gồm Alice Neel và Deborah Kass, Nochlin còn là một giáo sư nổi tiếng của Viện Mỹ thuật Đại học New York. Nochlin đã giành được giải thưởng Frank Jewett Mather của Hiệp hội Nghệ thuật Đại học về Viết phê bình vào năm 1978, và ngoài các bài phê bình, bà đã xuất bản nhiều cuốn sách trong suốt cuộc đời của mình, bao gồm Women, Art, and Power, and Other Essays (1988), The Politics of Vision (1991), and The Body in Pieces: The Fragment as a Metaphor of Modernity (2001).

17. Bisi Silva (1962 – 2019)

Rất ít giám tuyển có đóng góp đáng kể cho nghệ thuật đương đại Châu Phi như Bisi Silva, người đã qua đời vào năm 2019 sau trận chiến với căn bệnh ung thư.

Silva từng là giám đốc sáng lập của Trung tâm Nghệ thuật Đương đại (CCA), Lagos, mở cửa vào năm 2007. Trong suốt nhiệm kỳ của mình tại đây, CCA nhanh chóng trở thành một không gian nghệ thuật có ảnh hưởng, nơi tổ chức các buổi trình diễn lớn của nhiều nghệ sĩ hàng đầu Châu Phi đang làm việc hiện nay.

CCA được thành lập để tạo cơ hội cho các nghệ sĩ Châu Phi thực hiện nhiều tác phẩm thể nghiệm hơn, để có được chỗ đứng trong một hệ thống hầu mà như không có các tổ chức phi lợi nhuận về nghệ thuật do chính phủ tài trợ.

Cô từng nói với Frieze, mục tiêu của cô là “thành lập một tổ chức hỗ trợ các khả năng nghệ thuật và giám tuyển mới”. Các trình bày của CCA bao gồm các buổi trình diễn của El Anatsui và J. D. ‘Okhai Ojeikere, đồng thời tổ chức thư viện trong khuôn viên với 1.000 đầu sách về lịch sử nghệ thuật Châu Phi.

Bisi Silva (Olabisi Obafunke Silva) là một giám tuyển nghệ thuật đương đại Nigeria. Ảnh: Jude Anogwih

Cùng với đó, Silva cũng thành lập Àsìkò, một nền tảng sư phạm lưu động dẫn dắt các chương trình trên khắp lục địa và giám tuyển các ấn bản của Dak’Art Biennale nghệ thuật Đương đại Châu Phi ở Senegal và Thessaloniki Biennale ở Hy Lạp. Với các triển lãm và sáng kiến ​​khác nhau của mình, Silva đã vạch ra một con đường mới cho những giám tuyển làm việc ở Châu Phi, cho thấy những cách khác nhau mà người ta có thể “cung cấp quyền truy cập thông tin có thể dẫn đến đối thoại, trao đổi và hợp tác có ý nghĩa” như cô đã từng nói.

18. Harald Szeemann (1933 – 2005)

Năm 1961, Harald Szeemann trở thành giám đốc của Kunsthalle Bern ở Thụy Sĩ, khiến ông trở thành một trong những người trẻ nhất từng được chọn lãnh đạo một bảo tàng trên toàn thế giới vào thời điểm đó.

Nhưng đó không phải là lý do duy nhất khiến Szeemann đi vào lịch sử nghệ thuật – ông cũng được biết đến với vô số các cuộc triển lãm nổi tiếng mà ông đã thực hiện. Trong số đó có “Live Inside Your Head: When Attitude Became Form” năm 1969, nhằm khảo sát nghệ thuật ưu tiên quy trình và ý tưởng hơn thẩm mỹ.

Mặc dù các nhà phê bình phản ứng gay gắt triển lãm này (kết quả là Szeemann đã từ chức khỏi vị trí của mình), “Live Inside Your Head” đã giúp kết tinh một số phong trào nghệ thuật đang phát triển, bao gồm Chủ nghĩa tối giản và Chủ nghĩa ý  niệm.

Ảnh: Keystone, Walter Bieri / AP

Khi Szeemann rời Kunsthalle Bern, ông tiếp tục tổ chức các cuộc triển lãm cấp tiến, bao gồm cả Documenta 5 của năm 1972, trong đó những người tham gia đã sử dụng hợp đồng nghệ sĩ một cách có ảnh hưởng để kiểm soát việc bán lại tác phẩm của họ.

Sau đó, ông đã tổ chức các kỳ 1999 và 2001 của Venice Biennale. (Szeemann là một trong hai giám tuyển từng điều hành cả Documenta và Venice Biennale, cùng với Okwui Enwezor.) Khả năng nhạy bén kỳ quặc của Szeemann đã giúp ông trở thành một trong những giám tuyển đầu tiên mở đường cho những người trong tương lai như Klaus Biesenbach và Hans Ulrich Obrist.

19. Marcia Tucker (1940 – 2006)

Ngày nay, để có được vị trí cố định trong thế giới nghệ thuật đương đại, bảo tàng New ở New York đã được thành lập bởi Marcia Tucker vào năm 1977. Vừa rời khỏi vị trí giám tuyển tại bảo tàng Whitney, Tucker đã 37 tuổi vào thời điểm thành lập viện, và với bảo tàng New bà hướng đến tạo ra một pháo đài cho nghệ thuật đương đại, vượt qua ranh giới, vị phạm (transgressive art) và mang màu sắc chính trị.

Ảnh: Courtesy New Museum

Một số triển lãm được tổ chức dưới sự chỉ đạo của bà là các cuộc dạo chơi riêng cho Joan Jonas, Martin Puryear, Hans Haacke, Ana Mendieta và Nancy Spero, cũng như các diễn thuyết chuyên đề như “Sự Khác Biệt: Về Đại Diện và Tình Dục” và “Hàng Hóa Hư Hỏng: Khao Khát và Tính Kinh Tế của Đối Tượng”

20. Walter Zanini (1925 – 2013)

Vào giữa thế kỷ 20, thời điểm mà nền nghệ thuật đương đại ở Brazil vẫn còn sơ khai, Walter Zanini là một trong những người đang nỗ lực biến quê hương của mình trở thành một nơi nghệ thuật sôi động hơn.

Là giám đốc của Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại São Paulo (MAC) từ năm 1963 đến năm 1978, Zanini đã tổ chức các cuộc triển lãm dành cho chủ nghĩa hiện đại châu Âu, cũng như các cuộc khảo sát tiên tiến về nghệ thuật ý niệm đã giúp khởi động nền nghệ thuật Brazil.

Ảnh: Courtesy Acervo Histórico Fundação Bienal

Trong số những người được đưa vào các triển lãm tầm cỡ bao gồm có Jannis Kounellis, On Kawara, Anna Bella Geiger, Leticia Parente, và nhiều hơn nữa. (MAC vào thời điểm đó là bảo tàng đại học duy nhất ở Brazil.)

Trong khi Zanini thường xuyên chống lại các vấn đề áp đặt bởi ngân sách khiêm tốn và chế độ chính trị áp bức, các cuộc triển lãm của ông đã hỗ trợ việc nhập khẩu nghệ thuật tiên phong đang được nhìn thấy ở nước ngoài. Điều quan trọng, Zanini, người đã tổ chức hai kỳ của Bienal de São Paulo, vào năm 1981 và 1983, là người ủng hộ việc tạo ra một mạng lưới các bảo tàng Mỹ Latinh, đảm bảo rằng động lực mà ông đang tạo ra ở Brazil đã vượt ra ngoài biên giới của nó.

Ảnh bìa: 

Women Artists: 1550-1950 (từ 21/12/1976 – 27/11/1977) là triển lãm nghệ thuật quốc tế đầu tiên tập trung vào các nữ nghệ sĩ, diễn ra vào thời điểm phong trào nghệ thuật nữ quyền (Feminist Art Movement) đang rất được ủng hộ và phát triển mạnh mẽ. Triển lãm do giáo sư Ann Sutherland Harris và Linda Nochlin đồng giám tuyển, giới thiệu 83 nữ nghệ sĩ đến từ 12 quốc gia, tổ chức tại Los Angeles County Museum of Art (Theo En.wikipedia.org)

Tác giả: Alex Greenberger, Claire Selvin

Chuyển ngữ: Tam Tam


 
Back to top