DINING LIBRARY / Dining Culture & Art

Văn hóa ăn chè – Nghệ thuật gìn giữ tính tự nhiên của người Việt

Apr 12, 2025 | By Stephanie Nguyen

Ẩm thực Việt Nam là một dòng chảy văn hóa thấm đẫm chất thơ. Trong dòng chảy
ấy, món chè mát lành là một nhánh nhỏ nhưng không bao giờ cạn. Chè không phô trương, không cầu kỳ, mà lặng lẽ bồi đắp tâm hồn người Việt qua từng thế hệ. Nếu phở là bản tuyên ngôn của ẩm thực Việt, thì chè chính là khúc ru ngọt ngào, là tiếng thì thầm của đất mẹ trong lòng người con xa xứ.

Món chè trôi nước ăn cùng với cốt dừa

Giữa những thăng trầm lịch sử, giữa những biến chuyển không ngừng của xã hội và khẩu vị, có một món ăn vẫn vững vàng giữ lấy chỗ đứng của mình trong lòng người Việt không ồn ào, không đòi hỏi, chỉ lặng lẽ đi cùng năm tháng như một mảnh hồi ức dịu dàng ấy chính là chè.

Văn hóa ăn chè thấm sâu qua thời gian

Từ thời cha ông, người Việt đã nuôi dưỡng một triết lý sống hài hòa với thiên nhiên như mạch ngầm lặng lẽ mà bền bỉ, chảy xuyên suốt trong từng bữa ăn. Không có rau trái trái mùa, không có món ăn đi ngược tiết trời. Mùa nào thức ấy, đất cho gì thì ăn nấy. Nhẽ ấy không chỉ là lựa chọn, mà là cách thể hiện sự trân trọng với vòng quay của trời đất. Trong dòng chảy trôi này, chè cũng hòa mình như một tiếng thì thầm nhẹ nhàng của đất mẹ, không phô trương, không cưỡng cầu, chỉ cần đúng mùa, đúng lúc là tự khắc thấm sâu vào trong tâm khảm.

Chè là món ăn truyền thống của người Việt

Thuở xa xưa, chè đã có mặt như một phần không thể thiếu trong đời sống người Việt. Trong các dịp lễ tết, rằm, giỗ chạp, chè luôn hiện diện trên mâm cúng, như một món quà dâng tổ tiên. Trong những ngày hè oi ả, bát chè đậu đen mát lạnh là thức quà tuổi thơ không thể quên. Chè trôi nước vào ngày Tết Hàn thực, chè con ong ngọt lịm vị gừng nấu nước đường trong những buổi chiều đông, hay chè sen Huế với vẻ thanh tao, nền nã. Dường như bát chè của mỗi vùng miền lại gửi gắm vào đó một nét riêng, một hồn cốt riêng, nhưng tựu trung đều là sự nhẹ nhàng, tinh tế, và gắn bó sâu sắc với đời sống tinh thần của người Việt.

Điều đáng quý là, dù trải qua bao biến động lịch sử, từ thời vua chúa vang bóng một thời cho tới những thăng trầm đói khổ trường kỳ để đi đến thời kỳ đổi mới và hội nhập, chè vẫn tồn tại như một phần không thể thay thế. Bát chè quê vẫn được giữ gìn không chỉ bởi thói quen ẩm thực, mà bởi lòng người chưa bao giờ quên cái gốc tự nhiên của mình. Người Việt có thể ăn uống sang trọng từ nhiều đời với nem công chả phượng, ăn nhiều món lạ như tay gấu, thử mọi món trên đời nhưng cuối bữa ăn vẫn thèm bát chè đậu xanh giải nhiệt, hay một ly chè sen thơm phức, đơn sơ mà yên ả như một khúc ca đồng nội.

Cốc chè đầy đá lạnh xua tan cái nóng bức mùa hè

Dẫu có những lúc khan hiếm, người Việt vẫn tìm cách nấu chè bằng những nguyên liệu sẵn có như củ năng, rau câu, khoai mì… Không có nước dừa thì dùng nước đường thắng, không có đậu xanh thì thay bằng đậu đen, đậu đỏ miễn sao vẫn giữ được hồn vị dân dã. Chính trong sự linh hoạt ấy, người Việt không chỉ giữ được món ăn, mà còn gìn giữ được tinh thần dân tộc, gìn giữ được căn tính tự nhiên ấy chính là sự linh hoạt, bền bỉ, thích nghi nhưng không mất gốc.

Giữ hồn tự nhiên qua món chè giản dị

Chè về bản chất, là món ăn có hương vị ngọt ngào, là món ăn chơi, món quà chiều lót dạ chờ cơm tối, món điểm tâm trong những buổi chuyện trò. Chè Việt từ lâu đã không còn đơn thuần là một món ăn, mà là một nét văn hóa, một biểu hiện tinh tế của tâm hồn Việt.

Trong bát chè nhỏ bé ấy là cả một vườn quê từ cái thơm dịu của hoa nhài, hoa bưởi mùa xuân, vị bùi của đậu xanh mùa hạ, hương cốm mới mùa thu hay sắc tím nhẹ nhàng của khoai lang tím mỗi độ đông về. Người Việt làm chè bằng những gì thân thuộc nhất với đất như nắm đậu xanh lòng vàng bùi béo, củ khoai lang mật ngọt sắc, trái bắp ngô thơm mùi đồng ruộng, hạt sen bở thơm phức… Từ phố phường Hà Nội đến những thôn làng miền Tây, đâu đâu cũng có một dáng hình của chè, một thanh âm của gánh hàng rong rao từng cốc chè thân thương. Chè gắn bó với nhịp sống và nếp nghĩ của người Việt.

Cách nấu chè cũng như cách sống của người Việt, có gì đó thật chậm rãi

Cách nấu chè cũng như cách sống của người Việt, có gì đó thật chậm rãi, tỉ mẩn, không vội vàng. Hạt đậu muốn ngon phải được ngâm qua đêm cho mềm, nước đường phải chọn loại đường phù hợp với vị chè. Từ đường cát, đường hoa mai, cho tới đường thốt nốt… dừa phải chọn loại vừa đủ béo nhưng không ngọt gắt… Từng công đoạn là một sự chăm chút, thể hiện sự trân trọng với thiên nhiên và với chính nguyên liệu. Chè không cần cầu kỳ, càng không cần nguyên liệu đắt đỏ. Cái ngon của chè nằm ở sự nguyên sơ, ở hương vị thật thà, trong trẻo.

Mỗi lần nấu chè không chỉ là một công việc bếp núc, mà là một nghi lễ nhỏ để người Việt sống lại những hồi ức riêng. Có thể là về một mùa mưa, một mảnh vườn cũ, một tiếng rao từ thuở xa xôi. Vì thế, chè không chỉ là món ăn chơi, mà là mạch kể dịu dàng của văn hóa nơi người nấu lặng lẽ đặt vào từng thìa ngọt mát cả một tinh thần sống biết lắng nghe đất trời và gìn giữ những điều tưởng chừng đã lùi xa.

Chè trong thế giới ẩm thực mới

Trong thế giới ẩm thực chịu sự tác động của nền công nghiệp hóa, nơi mọi thứ đều có thể được tạo ra với số lượng lớn, thì chè Việt vẫn giữ được vẻ đẹp thô mộc và tiết chế. Cho dù nền công nghiệp ẩm thực có tạo ra bao nhiêu loại bánh kẹo ngọt lịm thơm phức, thì cũng không thể tạo ra vị ngọt dịu tự nhiên của món chè. Không có vị ngọt gắt của đường hóa học, không có màu sắc rực rỡ nhân tạo, chè chọn cho mình một lối đi riêng đầy mộc mạc và tinh tế. Chính sự khiêm nhường ấy lại là điều làm nên sự khác biệt. Đó là nét đẹp của sự đủ đầy từ những điều giản dị, như một bức tranh vẽ nên bởi vị giác. Chè đủ nhã nhặn mà sâu sắc, cầu kỳ nấu chậm rãi mà hương vị thấm lâu.

Món chè bưởi trứ danh của người Việt, từ cùi bưởi tưởng chừng như đồ thừa bỏ đi, người Việt cho ra món chè thanh mát với cùi bưởi giòn sựt, đậu xanh bùi béo mềm tan và cốt dừa thơm ngậy độc đáo

Giữa thời hiện đại, khi người ta dễ bị cuốn vào vòng xoáy của thực phẩm chế biến, đồ ăn công nghiệp, chè vẫn giữ nguyên hồn cốt của mình là sự tự nhiên, thuần phác, gắn bó với đất và mùa. Người Việt ăn theo mùa, nấu theo mùa và món chè cũng vậy. Không có chè bắp khi chưa tới mùa bắp non, không có chè sen khi sen chưa vào độ nở. Sự gắn bó với mùa vụ khiến chè trở thành món ăn của tự nhiên vừa đúng mùa đúng vụ, đúng tiết, lại vừa đúng lòng người. Đó là nét đẹp thầm lặng trong cách người Việt gìn giữ bản sắc. Đôi khi ẩm thực Việt không cần tuyên ngôn to lớn, chỉ cần một nồi chè nhỏ thơm hương bếp cũ cũng đủ để nhắc ta nhớ về cội nguồn.

Xôi chè bà Thìn ở Hà Nội

Ngày nay, giữa phố thị hiện đại, ta vẫn bắt gặp những gánh chè rong, những quán chè vỉa hè, hay những cửa tiệm nhỏ nép mình bên hẻm sâu. Chè giờ có thể được biến tấu phong phú hơn. Người bán thêm thạch, thêm trái cây, thậm chí du nhập các món chè từ Thái Lan, Malaysia… và thêm hương vị mới nhưng cốt lõi vẫn là sự thanh nhẹ, mộc mạc. Một ly chè đậu xanh đá vẫn khiến người ta dịu lòng sau một ngày mỏi mệt. Một chén chè hạt sen vẫn khiến ai đó nhớ về nội, về mẹ, về những buổi chiều tháng Bảy gió lùa qua cửa sổ gỗ.

Chè không cần đến những sáng tạo quá tay. Mỗi lần nấu chè là một lần người nấu hồi tưởng về mùa màng bội thu, về mảnh vườn xưa hay tiếng rao hàng rong tuổi thơ. Chè vì thế không chỉ là món ăn chơi, mà là một lát cắt mềm mại của văn hóa nơi tinh thần Việt thấm vào từng thìa ngọt mát. Nó là một phần của cộng đồng, là chiếc cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa cái bình dị và cái thiêng liêng.

Đỉnh cao ẩm thực cung đình Huế nằm ở bát chè sen

Giữ gìn chè là giữ gìn sự giản dị, là giữ một phần hồn cốt của văn hóa Việt. Bởi chè không chỉ để ăn, mà để cảm được trời đất, được mùa, được người, được căn tính, và được cả một nền văn minh ẩm thực đã chắt chiu từ những điều nhỏ bé nhất.

Bài: Hà Chuu


 
Back to top preload imagepreload image