ART & CULTURE

Triển lãm Mai Thứ, tiếng vọng của một Việt Nam trong mơ

Aug 13, 2021 | By Sơn Ca

Từ 16 tháng 6 đến 24 tháng 10 năm 2021, tại bảo tàng Ursulines thành phố Mâcon diễn ra triển lãm tranh Mai Thứ, tiếng vọng của một Việt Nam trong mơ (Mai-Thu, écho d’un Vietnam rêvé) kèm theo nhiều hoạt động giới thiệu văn hóa Việt Nam. Tại đây, lần đầu tiên nhiều tác phẩm chưa từng công bố của Mai Trung Thứ được ra mắt, với gần 140 bức tranh trên chất liệu sơn dầu, tranh lụa, tranh vẽ, ảnh và bản in thạch bản.

Mai Trung Thứ và bức bích họa trong nhà thờ Saint-Pierre ở Mâcon năm 1941. (Ảnh chụp từ Catalogue)

Ngày 19 tháng 2 năm 1940, tại số 31 đường Dufour thành phố Mâcon, Pháp, một thư viện nhỏ dành riêng cho việc họp hành, đọc sách của các sĩ quan và binh lính được khai trương, nhờ ý tưởng của bà Rose Sauvage (1899-1987).

Một người Việt tham gia lính Pháp thường xuyên lui tới, quen biết bà Sauvage sau những cuộc chuyện trò. Một lần, anh ngỏ ý muốn vẽ chân dung bà bằng pastel và phấn trắng trên giấy. Bức chân dung làm bà Sauvage bất ngờ và khám phá ra người thanh niên này là một họa sĩ đến từ Việt Nam. Bà đã giới thiệu anh với các thành viên trong Học viện Nghệ thuật, Khoa học và Văn chương Mâcon và những gia đình quý tộc trong vùng. Từ đó, anh vẽ theo đặt hàng của các gia đình, đồng thời sáng tác một loạt tranh chân dung trên lụa, một chỉ dẫn về quê hương anh, Việt Nam (1). Anh cũng thực hiện một bức bích họa tưởng nhớ những người lính hy sinh trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất tại nhà thờ Saint-Pierre ở Mâcon, góp phần vào những tác phẩm cùng loại hiếm hoi hiện đang được bảo tồn ở Saône-et-Loire (2).

Người ấy là Mai Trung Thứ (1906-1980), một họa sĩ nổi tiếng của nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20. Anh đã sống tại thành phố Mâcon từ năm 1940 đến năm 1942, đầu tiên tham gia quân đội Pháp trong Chiến tranh Thế giới thứ hai rồi trở thành công dân gắn bó với thành phố này.

Bà Michèle Moyne-Charlet, giám đốc bảo tàng Ursulines kể lại:

“Việc Mai Thứ sống ở Mâcon, ban đầu chỉ như một dấu ngoặc đơn liên quan đến chiến tranh, nhưng là quãng thời gian quan trọng trong đời ông. Từ đây khởi nguồn những tình bạn lâu dài, đặc biệt với gia đình Combaud. Tuy dừng chân ngắn ngủi, ông vẫn duy trì sáng tác nghệ thuật, khẳng định sự sáng tạo của mình, thể hiện rõ nét thông qua tác phẩm tại nhà thờ Saint-Pierre. Mai Thứ nổi tiếng ở Mâcon, và cả Lyon, qua những triển lãm được tổ chức riêng cho ông. Kỹ thuật vẽ tranh lụa của Mai Thứ, như trong một bộ phim tài liệu ông từng sản xuất, đã khiến ông trở nên đặc biệt trước công chúng, không chỉ quyến rũ bằng những đường nét tinh tế mà còn bởi sự nhẹ nhàng toát ra từ tác phẩm. Ký ức về ông vẫn đọng lại trong tâm trí người dân Mâcon, qua những cuộc phỏng vấn gần đây với thế hệ con cháu của vài gia đình, gợi nhớ về hình ảnh một người đàn ông tri thức, tinh tế, cởi mở và được nhiều người yêu mến.” (3)

Ảnh và chân dung Mai Trung Thứ.
Autoportrait aux lunettes, 1950, sơn dầu trên vải.

Từ 16 tháng 6 đến 24 tháng 10 năm 2021, tại bảo tàng Ursulines thành phố Mâcon diễn ra triển lãm tranh Mai Thứ, tiếng vọng của một Việt Nam trong mơ (Mai-Thu, écho d’un Vietnam rêvé) kèm theo nhiều hoạt động giới thiệu văn hóa Việt Nam. Tại đây, lần đầu tiên nhiều tác phẩm chưa từng công bố của Mai Trung Thứ được ra mắt, với gần 140 bức tranh trên chất liệu sơn dầu, tranh lụa, tranh vẽ, ảnh và bản in thạch bản. Triển lãm được thực hiện với sự hợp tác của Bảo tàng Cernuschi ở Paris (bảo tàng Nghệ thuật Châu Á ở Paris) cùng sự hỗ trợ của con gái họa sĩ, bà Mai Lan Phương. Được công nhận là một sự kiện văn hóa cấp quốc gia, triển lãm nhận được tài trợ đặc biệt từ nhà nước và nhiều tổ chức khác.

Không gian triển lãm Mai Trung Thứ

Triển lãm phác thảo cuộc đời và sự nghiệp của Mai Trung Thứ qua 3 thời kỳ: tuổi trẻ ở Việt Nam (1906-1937), thời kỳ ở Mâcon đánh dấu sự thay đổi rõ nét trong phong cách mỹ thuật (1940-1942), và sự nghiệp của họa sĩ ở Pháp (1938-1980).

Không gian của triển lãm chia thành nhiều phòng nhỏ. Các tác phẩm được sắp xếp theo dòng thời gian và chủ đề. Dòng thời gian được thể hiện rõ nhất ở phần không gian trưng bày tranh của Mai Trung Thứ từ năm 1925 đến năm 1942, qua các thời kỳ ở Hà Nội, Huế và Mâcon. Phần không gian trưng bày tranh theo chủ đề là những tác phẩm được Mai Trung Thứ sáng tác ở Pháp từ sau năm 1937 đến khi ông mất.

Không gian triển lãm Mai Trung Thứ

Ba thời kỳ trong sự nghiệp của Mai Trung Thứ

Mai Trung Thứ (được biết đến với tên Mai Thứ) sinh năm 1906, tại Hải Phòng, là con của Mai Trung Cát, tổng đốc Bắc Ninh. Năm 1925, ông thi đỗ vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương tại Hà Nội khóa đầu tiên, cùng thế hệ với họa sĩ Lê Phổ, Nguyễn Phan Chánh, Lê Văn Đệ…Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, là tiền thân của Đại học Mỹ Thuật Hà Nội ngày nay, được thành lập bởi Victor Tardieu, họa sĩ người Pháp và Nam Sơn, họa sĩ Việt Nam. Cả hai ông đều mơ ước phát triển nghệ thuật hội họa đặc trưng cho Đông Dương trên nền tảng truyền thống. Trong 5 năm, Mai Trung Thứ đã được học kỹ thuật vẽ tranh và lịch sử nghệ thuật phương Tây. Ông cũng học nghệ thuật vẽ tranh sơn mài và tranh lụa.

Gắn với giai đoạn lịch sử này, ở ngay lối vào, triển lãm giới thiệu một tấm ảnh tư liệu khổ lớn của Mai Trung Thứ chụp cùng bạn học và thầy Victor Tardieu, bằng tốt nghiệp của Mai Trung Thứ, chân dung Mai Trung Thứ trên chất liệu sơn dầu và những bức tranh phác thảo bằng bút chì vẽ trong thời kỳ học ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.

Mai Trung Thứ cùng bạn học và thầy Victor Tardieu tại trường Cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương

Tốt nghiệp năm 1930, Mai Trung Thứ được bổ nhiệm dạy vẽ tại trường Quốc học Huế từ năm 1931 đến năm 1937. Trong thời gian này, ông bắt đầu học âm nhạc truyền thống, chơi đàn bầu, đàn tranh, đàn nguyệt và sáo trúc. Song song với việc dạy học, ông vẽ tranh, chủ yếu trên chất liệu tranh sơn dầu trên vải, và gửi tham gia triển lãm trong nước và quốc tế.

Từ năm 1935 đến năm 1937, ông vẽ nhiều chân dung một người phụ nữ bí ẩn và để tên Mademoiselle Phượng. Cùng những bức tranh phụ nữ Huế trong trang phục áo dài, dự án thiết kế tem bưu chính của ông từ năm 1929 đến năm 1936 cũng được trưng bày chung trong không gian triển lãm tại thời kỳ này.

Jeune Fille au chapeau conique et à la tunique verte, 1937, pastel, sanguine và phấn trắng trên giấy.

Không gian triển lãm Mai Trung Thứ.

Năm 1937, Mai Trung Thứ rời Việt Nam sang Pháp. Năm 1939, ông đăng ký tham gia quân đội Pháp trong chiến tranh và dừng chân lại Mâcon từ năm 1940 đến năm 1942. Thời kỳ sống ở Macon là quãng thời gian chuyển đổi phong cách rõ nét của họa sĩ. Ông ngừng vẽ tranh sơn dầu và quay lại với tranh lụa. Những bức tranh vẽ chân dung gia đình quý tộc phương Tây được thể hiện bằng nét vẽ Á đông trên chất liệu mềm mại của lụa đã tạo nên vẻ đẹp đặc biệt. Năm 1948, Mai Trung Thứ sản xuất phim tài liệu về tranh lụa. Bộ phim này hiện không lưu giữ được, nhưng từng được trình chiếu trong một vài triển lãm của ông, trong đó triển lãm tranh lụa của Mai Trung Thứ được tổ chức vào năm 1954 tại Mâcon khi ông quay lại thành phố này (4).

Tại triển lãm, ngoài những bức chân dung các gia đình ở Mâcon, người xem còn được thấy lại những kỷ vật của Mai Trung Thứ như bút, bảng màu, thư viết tay, áp phích triển lãm tranh lụa, ảnh Mai Trung Thứ và vợ tới thăm gia đình người bạn thân thiết ở Mâcon, bản phác thảo của bức bích họa trong nhà thờ Saint-Pierre. Trong bản phác thảo này không có hình ảnh Đức mẹ (Vierge Marie) nhưng trên bức tranh tường trong nhà thờ khi đã hoàn thiện, Mai Trung Thứ đã vẽ hình ảnh Đức mẹ với khuôn mặt có những đường nét của phụ nữ Á đông.

Chân dung những người phụ nữ ở Mâcon trong tranh Mai Trung Thứ, sáng tác từ năm 1939 đến năm 1941, trên chất liệu tranh lụa và than chì.

Bích họa của Mai Trung Thứ trong nhà thờ Saint-Pierre ở Mâcon, năm 1941.

Năm 1943, Mai Trung Thứ dừng chân lại Paris trong một căn hộ nhỏ nơi ông sống và vẽ đến cuối đời. Ngoài vẽ tranh ông còn cẩn thận tự làm khung tranh bằng các họa tiết tỉ mỉ và tinh tế, sơn phủ bằng sơn mài hoặc dát lên nhiều lớp vàng và bạc mỏng (5).

Từ đây, không gian của triển lãm chuyển sang trưng bày tranh của Mai Trung Thứ từ năm 1938 đến năm 1980 theo chủ đề, riêng phần phụ nữ chơi nhạc truyền thống có trộn lẫn vài bức họa sĩ vẽ những năm ở Huế.

Đề tài trong tranh Mai Trung Thứ

Đúng như tiêu đề của triển lãm Mai Thứ, tiếng vọng của một Việt Nam trong mơ, tranh của Mai Trung Thứ là cái nhìn hoài nhớ, mộng mơ hay nỗi niềm đau đáu khắc khoải của ông về quê hương.

Truyền thống văn hóa Việt Nam trong tranh Mai Trung Thứ được thể hiện qua những bức tranh trẻ em trong trang phục ngày tết, trong trò chơi dân gian; phụ nữ trong trang phục áo cưới truyền thống; chân dung gia đình ba thế hệ; bức tranh minh họa trích đoạn Kiều gặp Kim Trọng từ tác phẩm của Nguyễn Du.

Không gian triển lãm tranh Mai Trung Thứ

Phụ nữ và trẻ em là đề tài được Mai Trung Thứ đặc biệt khai thác. Ở phần tranh những cô gái chơi nhạc cụ truyền thống có sự khác biệt giữa tranh vẽ năm 1930, 1935 với giai đoạn sau khi ông ở Pháp. Phụ nữ trong tranh Mai Trung Thứ trước khi sang Pháp là những nét vẽ tả thực, còn sau là vẽ trong ký ức, trong giấc mơ nên có nhiều nét ước lệ.

Ngoài ra, ngay trong thời kỳ Mai Trung Thứ ở Pháp, những nét vẽ trong tranh của ông cũng có sự thay đổi theo thời gian. Bà Anne Fort, đại diện của bảo tàng Cernuschi, có những nghiên cứu về tranh của Mai Trung Thứ, nhận xét: Trong những bức tranh của Mai Trung Thứ những năm 1940, khuôn mặt của những người phụ nữ thường có hình trái xoan hoặc có vầng trán cao và hơi vuông, với những đôi mắt sâu. Thân hình họ được vẽ với những chi tiết và đường nét gợi nên những chuyển động uyển chuyển.

Từ những năm 1950, Mai Trung Thứ bớt tả thực, ông vẽ những người phụ nữ với cánh tay mỏng hơn và khuôn mặt tròn hơn. Trong những tác phẩm từ năm 1960, khuôn mặt phụ nữ và trẻ em trong tranh ông rất tròn, mũi ngắn, và hầu như không chuyển động. Trong giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1970, tranh của Mai Trung Thứ có tông màu acide nhiều hơn, hình dáng người trong tranh đơn giản hơn và thường không có phong cảnh hay họa tiết làm nền phía sau. Mai Trung Thứ thường sử dụng họa tiết ri-đô trong tranh của mình.

Những chiếc ri-đô trong suốt giúp cho hình ảnh những người phụ nữ trong tranh trở nên quyến rũ hơn. Ngoài ra, những chiếc ri-đô giúp cho nhân vật trong tranh có một khoảng cách với người xem, như người xem đang xem một phân cảnh trong một vở kịch (6).

Personnage indochinois, 1941, mực và màu trên lụa

Phụ nữ và trẻ em trong tranh Mai Trung Thứ Mère et Enfant, panier de fruits, 1946 và Consolation, 1961 mực và màu trên lụa

Mai Trung Thứ luôn hướng về quê hương với nỗi niềm đau đáu. Đề tài chiến tranh trong tranh của ông luôn có hình ảnh của những người phụ nữ và trẻ em, khi bồng bế nhau trong gió bão, khi lặng lẽ nguyện cầu. Từ năm 1960 đến năm 1965 ông đã hợp tác với quỹ Nhi đồng Liên hợp Quốc UNICEF để vẽ những bức tranh gây quỹ giúp đỡ trẻ em nghèo và bất hạnh.

Tranh tĩnh vật của Mai Trung Thứ là sự kết hợp giữa phương Đông và phương Tây. Ông đã lấy những đề tài trong tranh tĩnh vật phương Tây truyền thống và vẽ bằng kỹ thuật tranh lụa phương Đông, đồng thời đưa vào trong tranh những hình ảnh rau củ quả đặc trưng của Việt Nam, đôi đũa, chai nước mắm, hộp sơn mài, lọ gốm, bát gốm, hộp gốm…

Lilium, vase blanc, 1956, mực và màu trên lụa.

Xuyên suốt triển lãm, qua các thời kỳ, những bức chân dung tự họa của Mai Trung Thứ cũng được trưng bày trên nhiều chất liệu và phong cách khác nhau.

Bên lề triển lãm

Tầng dưới của triển lãm giới thiệu ảnh tư liệu về Mai Trung Thứ và trình chiếu những đoạn phim ông đã thực hiện. Những bức ảnh cho biết về một Mai Trung Thứ tài ba, ngoài chụp ảnh, làm phim, ông còn tham gia đóng phim Fort du Fou năm 1963. Triển lãm cũng trưng bày chiếc đàn bầu của Mai Trung Thứ gần khu vực tranh những cô gái chơi nhạc cụ truyền thống. Năm 1960, đĩa nhạc Âm nhạc Việt Nam được tuyển chọn bởi giáo sư Trần Văn Khê, có sự tham gia đàn bầu của Mai Trung Thứ và giọng hát của Mộng Trung, đã nhận giải Giải thưởng của Viện hàn lâm cho đĩa nhạc tại Pháp (7).

Mai Trung Thứ trong phim Fort du Fou, 1963

Ảnh chụp tranh của Mai Trung Thứ tại Gare de Lyon, Paris

Từ cuối tháng 6, bảo tàng Ursulines đã trưng bày 30 tấm ảnh chụp tranh của Mai Trung Thứ bên ngoài khuôn viên Gare de Lyon, Paris. Bức tranh Mère et Enfant, panier de fruits (Mẹ và con, giỏ trái cây) (1946) được chọn làm áp phích của triển lãm và đặt trước khuôn viên của nhà thờ Saint-Pierre, Mâcon. Các hoạt động giao lưu và quảng bá văn hóa Việt Nam như hội thảo, ca nhạc, thư pháp, kể chuyện cổ tích, giới thiệu trang phục truyền thống cũng được tổ chức trong suốt ba tháng diễn ra triển lãm.

Bài và ảnh: Sơn Ca

Chú thích:

(1) và (3) Tiểu luận Những tình bạn thân thiết, nơi khởi nguồn sợi dây gắn bó lâu dài của Mai Thứ và thành phố Mâcon của Michèle Moyne-Charlet, giám đốc bảo tàng Ursulines, Mâcon. Catalogue triển lãm Mai Thứ, Tiếng vọng của một Việt Nam trong mơ, nhà xuất bản Snoeck, Gand, 2021.

(2) Tài liệu tóm tắt về triển lãm của bảo tàng Ursulines.

(4) và (6) Tiểu luận Mai Thứ, giữa truyền thống và hiện đại: hành trình của một họa sĩ Việt Nam tại Pháp của Anne Fort, người phụ trách sưu tập Việt Nam và các nước Trung Á của bảo tàng Cernuschi, Paris. Catalogue triển lãm Mai Thứ, Tiếng vọng của một Việt Nam trong mơ, nhà xuất bản Snoeck, Gand, 2021.

(5) Website Mai Trung Thứ: http://www.mai-thu.fr/la-mise-en-valeur-par-le-cadre

(7) Đĩa Âm nhạc Việt Nam của giáo sư Trần Văn Khê hợp tác cùng Mai Trung Thứ và ca sĩ Mộng Trung. https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k88250294.media


 
Back to top