ART & CULTURE

20 giám tuyển thay đổi cách nhìn của chúng ta về nghệ thuật – Kỳ 1

May 22, 2021 | By Art Republik

Vinh danh 20 vị giám tuyển nghệ thuật có ảnh hưởng quan trọng, tác động sâu sắc và góp phần định hình nghệ thuật đương đại thế giới trong suốt thế kỷ 20.

Ngày nay, từ “giám tuyển” gợi đến một nhân vật thông thái, người cầm lái tham dự các lễ hội nghệ thuật lưỡng niên (biennales) trên khắp thế giới. Nhưng công việc của chức danh này không phải lúc nào cũng hấp dẫn. Vào giữa thế kỷ 20, một nhóm nhân vật đã giúp định nghĩa nghề này như chúng ta biết ngày hôm nay, bằng cách làm việc không mệt mỏi ở hậu trường.

Trong hầu hết các trường hợp, tên của họ không phải là những thứ quen thuộc vào thời điểm đó, nhưng tác động của họ rất sâu rộng, định hình diện mạo của nghệ thuật đương đại trong những năm tới thông qua các cuộc khảo sát đột phá, các phương thức trình bày đầy thử nghiệm và các sự kiện nghệ thuật lưỡng niên đẳng cấp thế giới.

Danh sách chọn lọc những người giám tuyển đã định nghĩa vai trò của nghề nghiệp này về sau. (Bài viết này sẽ chỉ giới hạn danh sách ở những nhân vật đã qua đời hoặc không còn hoạt động.) Bao gồm những người điều hành cuộc chơi, từ các nhà sáng lập của các biennales lớn, đến những vị giám đốc đã chuyển đổi các tổ chức bằng các cuộc triển lãm thúc đẩy ranh giới của họ.

Một số giám tuyển ở đây ủng hộ sự hợp nhất giữa nghệ thuật và chính trị, những người khác tìm ra những cách thức sáng tạo để trình bày nghệ thuật ý niệm, và những người khác vẫn đưa luồng sinh khí mới vào nền nghệ thuật của các quốc gia tương ứng.

Mặc dù hầu như không đầy đủ, danh sách này cung cấp một cái nhìn thoáng qua về những người đã xác định chính xác các phong trào nghệ thuật khác nhau và khởi động sự nghiệp của các nghệ sĩ tham gia. Trong quá trình này, họ chỉ ra rằng việc giám tuyển nghệ thuật không chỉ cần đến các triển lãm nhìn lại (retrospectives) và khảo sát (surveys) mà còn có thể bao gồm một cái gì đó gần giống với một loại hình nghệ thuật.

Dưới đây là danh sách 20 giám tuyển có ảnh hưởng nhất trong lịch sử nghệ thuật.

1. Alfred H. Barr, Jr. (1902 – 1981)

Sau khi giảng dạy một khóa học đột phá về nghệ thuật thế kỷ 20 tại Đại học Harvard, Princeton và Wellesley, Alfred H. Barr, Jr trở thành giám đốc đầu tiên của Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại (MoMA) ở New York ở tuổi 27 vào năm 1929.

Hai triển lãm cá nhân đầu tiên giám tuyển bởi Barr tại bảo tàng mới thành lập tập trung vào tác phẩm của Henri Matisse và Diego Rivera. Triển lãm năm 1936 “Nghệ thuật lập thể và trừu tượng” của ông cũng gây ảnh hưởng, đặc biệt là đối với các sơ đồ mà ông tạo ra kết nối ảnh hưởng của nghệ thuật hiện đại.

Từ trái sang phải: nhà soạn nhạc Elliott Carter, họa sĩ Mark Rothko, Tiến sĩ Alfred H. Barr, Jr., nhà viết kịch Tennessee Williams và nhà thơ Stanley Kunitz. Ảnh: AP Photo / John Lindsay

Dưới sự chỉ đạo của ông cho đến năm 1943, MoMA tiếp tục tổ chức các cuộc triển lãm quan trọng, như nhìn lại về Edward Hopper và lần ra mắt tại Hoa Kỳ bức tranh tường phản chiến Guernica của Picasso (nơi nó được cho mượn kéo dài đến năm 1981), và Barr đã giúp đảm bảo các vụ mua lại lớn, bao gồm cả Picasso Les Demoiselles d’Avignon (1907) và Sleeping Gypsy (1897) của Henri Rousseau.

Vì tất cả những điều này, ông được ghi nhận là người đã định hình một trong những pháo đài quan trọng nhất của thế giới về nghệ thuật hiện đại. Trong cáo phó năm 1981 cho Barr, New York Times mô tả ông là “một nhà thâu tóm nhạy bén với ý thức về tầm quan trọng của lịch sử”.

2. Arnold Bode (1900 – 1977)

Năm 1953, Arnold Bode đến thăm Palazzo Reale ở Milan. Mặc dù bảo tàng vẫn bị hư hại do thế chiến thứ hai, nhưng Bode đã bị ấn tượng bởi buổi trình diễn khổng lồ của Pablo Picasso và ông muốn tạo ra một thứ gì đó với quy mô của nó ở quê hương Đức của mình.

Kết quả là cuộc triển lãm, như chúng ta biết ngày nay, Documenta, đã đi vào lịch sử. Kỳ đầu tiên, được tổ chức vào năm 1955 tại Bảo tàng Fridericianum ở Kassel, Đức, là cuộc triển lãm nghệ thuật hiện đại lớn nhất từng được tổ chức ở Tây Đức vào thời điểm đó, trưng bày các tác phẩm của một loạt các nghệ sĩ có tầm trải dài hơn nửa thế kỷ qua của lịch sử nghệ thuật châu âu, từ Henri Rousseau đến Sophie Taeuber-Arp.

Ảnh: Zschetschingk / picture-league / dpa / AP

Bode, người tiếp tục thực hiện ba phiên bản khác của Documenta vào các năm 1959, 1964 và 1969, giúp sự kiện nghệ thuật năm năm trở thành một trong những cuộc khảo sát quan trọng nhất của thế giới về làm nghệ thuật đương đại.

Các nhà tổ chức trong tương lai phát huy xa hơn tham vọng của sự kiện này, với việc giám tuyển Okwui Enwezor đã và đang mở rộng đáng kể mục tiêu của Documenta để giới thiệu các nghệ sĩ không chỉ ở phương Tây, với phiên bản năm 2001 của ông. Ngay cả khi bốn kỳ Documenta của Bode dường như bị giới hạn bởi phạm vi châu Âu, các cuộc triển lãm của ông cũng đã vạch ra một con đường hiệu quả cho các triển lãm lưỡng niên đã phổ biến trên khắp thế giới trong những năm gần đây.

3. Germano Celant (1940 – 2020)

Germano Celant từng viết: “Tồn tại từ bên ngoài hệ thống là một cuộc cách mạng”. Và chỉ với một buổi trình diễn ở phòng trưng bày bên ngoài một thủ đô nghệ thuật lớn, ông ấy đã đưa nền nghệ thuật Ý vào một hướng đi đầy hiệu quả.

Buổi trình diễn năm 1967, “Im Spazio” tại Galleria La Bretesca ở thành phố Genoa, đã xác lập phong trào được gọi là Arte Povera, liên quan đến việc tạo ra tác phẩm nghệ thuật từ những vật liệu rẻ tiền “thấp hèn” đối lập với phong cách “cao sang” chất liệu truyền thông như hội họa và điêu khắc. Mario Merz, Pino Pascali, Michelangelo Pistoletto, Jannis Kounellis, v.v. là những người cung cấp quan trọng nhất của phong trào trong những năm 60 và 70.

Germano Celant. Ảnh: Courtesy Fondazione Prada

Celant, người đã qua đời vào năm 2020 vì Covid, tiếp tục ủng hộ nghệ thuật đương đại Ý trong suốt sự nghiệp của mình, bao gồm các vị trí giám tuyển tại Bảo tàng Guggenheim ở New York và Fondazione Prada ở Milan.

Trong khi ông thỉnh thoảng bị buộc tội bán tháo — đặc biệt là với kỳ Venice Biennale năm 1993, mà nhiều nhà phê bình coi là thiên vị các nghệ sĩ blue-chip thành danh – Celant xuất hiện trong danh sách này vì anh ấy đã tạo cơ hội cho nghệ thuật, một thứ vốn không có khả năng được các thể chế lãnh đạo của Ý thời hậu chiến ủng hộ. “Celant đã thay đổi cách thức tạo ra và nhìn vào tác phẩm nghệ thuật cũng như cách thức giám tuyển một cách toàn diện” giám tuyển Francesco Bonami viết vào năm 2020.

4. Johannes Cladders (1924 – 2009)

Trong suốt những năm 1960, khi các nghệ sĩ chuyển sang thực hành ý niệm, Cladders đã tưởng tượng lại các tổ chức như những không gian có thể lưu trữ các ý tưởng cũng như các đối tượng nghệ thuật.

Ông đã đặt thuật ngữ cho loại thể chế đầy tham vọng này: “chống bảo tàng” (anti-museum). Ông viết vào năm 1968: “Cái ‘chống’ trong cái ‘chống bảo tàng’, phải được hiểu là sự bóc tách của bốn bức tường và việc xây dựng một tòa nhà tâm linh, trong đó nghệ thuật và tu luyện nghệ thuật tìm thấy “căn phòng” mà chúng hỗ trợ lẫn nhau vì chúng phụ thuộc lẫn nhau”.

Ảnh trái: Johannes Cladders, tại khai mạc triển lãm Hanne Darboven, ngày 25/2/1969, thuộc kho lưu trữ của bảo tàng Abteiberg. Ảnh phải: Thuộc kho lưu trữ của thành phố Mönchengladbach

Bảo tàng Abteiberg. Ảnh: Roland Weihrauch / tranh-minh / dpa / AP Images

Trên cương vị giám đốc của bảo tàng Abteiberg ở Mönchengladbach (Đức), ông đã tổ chức các buổi trình diễn kỳ quặc cho các nghệ sĩ chưa nổi tiếng — Stanley Brouwn đã dọn sạch bảo tàng tất cả các đồ vật cho một buổi trình diễn năm 1970, và Daniel Buren đã thực hiện triển lãm trình bày ý tưởng cho các triển lãm nhìn lại vào năm 1975.

Là thành viên của nhóm giám tuyển Documenta 5 của Harald Szeemann vào năm 1972, Cladders đã đi vào lịch sử với phong cách thử nghiệm của mình, giúp củng cố danh tiếng quốc tế của Carl Andre, Joseph Beuys, Marcel Broodthaers và nhiều người khác.

5. Anne d’Harnoncourt (1943 – 2008)

Anne d’Harnoncourt từng là giám đốc của Bảo tàng Nghệ thuật Philadelphia từ năm 1982 cho đến khi bà qua đời vào năm 2008. Những triển lãm nhìn lại do chính d’Harnoncourt đã giám tuyển tại bảo tàng trong suốt nhiệm kỳ của bà, tập trung vào Paul Cézanne, Constantin Brâncuși, Hon’ami Kōetsu, Barnett Newman và Salvador Dalí.

Anne d’Harnoncourt trước bức “Thành phố” (French: La Ville) của Fernand Léger năm 1982. Ảnh: Bảo tàng nghệ thuật Philadelphia

Trong số những thành tựu lớn nhất của bà tại viện là việc sắp đặt lại các bộ sưu tập châu Âu, cải tạo một số phòng trưng bày nghệ thuật hiện đại và đương đại của bảo tàng. Trước khi nắm quyền điều hành Bảo tàng Nghệ thuật Philadelphia, Harnoncourt từng là giám tuyển nghệ thuật thế kỷ 20 tại cơ sở này. Theo New York Times, bà là người phụ nữ duy nhất lãnh đạo một viện bảo tàng với ngân sách hàng năm trên 25 triệu đô la khi bà được bổ nhiệm vào vị trí cao nhất vào năm 1982.

6. David C. Driskell (1931 – 2020)

David C. Driskell, người đã qua đời vào năm 2020 vì Covid, đã cống hiến công việc của mình với tư cách là một nghệ sĩ, nhà sử học, nhà sưu tập và giám tuyển lịch sử nghệ thuật người Mỹ gốc Phi.

Triển lãm mang tính đột phá năm 1976 của Driskell “Hai thế kỷ nghệ thuật của người Mỹ da đen: 1750–1955” tại Bảo tàng Nghệ thuật Los Angeles (LACMA) đã khảo sát hơn 200 năm sáng tạo của các nghệ sĩ da đen, thiết lập nên một nền nghệ thuật da đen ở Mỹ.

David C. Driskell. Ảnh: Paul Morigi / AP Images for National Portrait Gallery

Buổi triển lãm đó, có tác phẩm của Jacob Lawrence, Alma Thomas, Henry Ossawa Tanner, Bill Traylor và nhiều người khác, được coi là một trong những trình bày quan trọng nhất trong lịch sử của LACMA.

Chia sẻ với New York Times về triển lãm, Driskell cho biết: “Tôi đang tìm kiếm một tác phẩm cho thấy trước hết rằng Người da đen đã là những người tham gia ổn định vào văn hóa thị giác Mỹ trong hơn 200 năm; và bởi những người tham gia ổn định, tôi chỉ đơn giản muốn nói rằng trong nhiều trường hợp, họ đã là trụ cột”. (Chương trình gần đây là nguồn cảm hứng cho một bộ phim tài liệu của HBO về nghệ thuật Da đen.)

Sau đó trong sự nghiệp của mình, Driskell đã thành lập Trung tâm David C. Driskell về Nghiên cứu Nghệ thuật Thị giác, Văn hóa của người Mỹ gốc Phi và Cộng đồng người gốc Phi tại Đại học Maryland, College Park. Mỗi năm kể từ năm 2005, Bảo tàng cao cấp Atlanta đã trao giải thưởng trị giá 25.000 USD mang tên Driskell cho học giả hoặc nghệ sĩ đã có những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực nghệ thuật của người Mỹ gốc Phi.

7. Okwui Enwezor (1963 – 2019)

Một giám tuyển đầy tham vọng với tư duy đột phá, Okwui Enwezor, qua đời vào năm 2019 ở tuổi 55, được biết đến với quan điểm toàn cầu về kỷ luật mà ông tán thành.

Sau khi tổ chức hai cuộc khảo sát có ảnh hưởng về nhiếp ảnh châu Phi đương đại, Enwezor đã trở nên nổi tiếng quốc tế với sự chỉ đạo của ông ở kỳ Documenta 11 vào năm 2001, cung cấp bằng chứng rằng những đóng góp của các nghệ sĩ châu Phi, châu Á và Mỹ Latinh cũng đáng kể như những nghệ sĩ ở Mỹ và Châu u.

Ảnh: Andreas Gebert / picture-league / dpa / AP Images

Trong giai đoạn sau của sự nghiệp, ông là giám đốc của Haus der Kunst ở Munich, nơi ông gắn kết những hồi tưởng quan trọng về các nghệ sĩ như El Anatsui, Frank Bowling, Ellen Gallagher và những người khác, cũng như các show đột phá 2016–17 “Hậu chiến: Nghệ thuật Giữa Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, 1945–1965” mở rộng lịch sử nghệ thuật từ thời kỳ đó để bao gồm nhiều nghệ sĩ ngoài phương Tây hơn.

Trên hành trình của mình, Enwezor cũng đã cách mạng hóa triển lãm lưỡng niên, tưởng tượng những buổi trình diễn định kỳ này như những sự kiện hợp nhất toàn cầu. Có lẽ ví dụ điển hình nhất về điều này là Gwangju Biennale năm 2008 của ông, ít nhiều là một tập hợp các cuộc triển lãm đã xuất hiện ở những nơi khác. Trước buổi trình diễn đó, Enwezor nói, “Phép ẩn dụ của tôi cho những cuộc triển lãm lưu diễn này là một trong những thế giới du hành phức tạp” – một câu nói có thể áp dụng cho toàn bộ hoạt động giám tuyển của ông.

8. Pierre Gaudibert (1928 – 2006)

Trong những năm 1960, các thể chế cấp cao của Paris phải đối mặt với sự chỉ trích rộng rãi từ sinh viên và những người cấp tiến rằng họ chỉ phục vụ thị hiếu của khán giả trung lưu. Nhưng bảo tàng Musée d’Art Moderne de la Ville de Paris đã nhanh chóng thoát khỏi những chỉ trích này nhờ công việc giám tuyển của Pierre Gaudibert.

Ông đã giới thiệu một chương trình có tên Animation-Recherche-Confrontation (Diễn đạt – Nghiên cứu – Chất vấn), viết tắt là ARC, giới thiệu nghệ thuật vật lộn với Chiến tranh Việt Nam (Tháng 1/1969, ông đã giám tuyển một triển lãm về Chiến tranh Việt Nam mang tên “Căn phòng Đỏ”), các cuộc biểu tình chống lại sự lãnh đạo của các quan chức Pháp,v.v.

Ảnh: © Gilles Perrin

Chương trình cánh tả “không che” của ARC bao gồm triển lãm cá nhân năm 1971 của Lucien Mathelin với các bức tranh hình dung các tượng đài ở Paris là biểu tượng của cái chết và sự mục nát. Giữa làn sóng phản đối kịch liệt, cảnh sát đã gỡ bỏ hai tác phẩm khỏi triển lãm của Mathelin, và bảo tàng đóng cửa trong bốn ngày. (Năm sau, Gaudibert từ chức ARC trong bối cảnh bất đồng về cách trình bày một cuộc khảo sát rộng lớn về nghệ thuật đương đại Paris)

Với ARC, Gaudibert đã cho thấy rằng, để giữ được sự phù hợp, các viện bảo tàng không thể bỏ qua những diễn biến chính trị tưởng chừng ít liên quan. Nói về ARC nhân dịp Gaudibert qua đời năm 2006, giám tuyển Suzanne Pagé chia sẻ với Le Monde, “Trước đây, bảo tàng là nơi dành riêng cho tầng lớp đặc quyền. Ông ấy đã mở cửa cho nghệ thuật đương đại và anh ấy đã hạ cấp nó!”

9. Henry Geldzahler (1935 – 1994)

Nhà phê bình và giám tuyển Henry Geldzahler làm việc tại New York, có lẽ được biết đến nhiều nhất với công việc không mệt mỏi của mình với tư cách là người bênh vực cho các nghệ sĩ như David Hockney và Andy Warhol, cả hai đều vẽ Geldzahler như một chủ đề trong tác phẩm của họ.

Ở tuổi 33, Geldzahler gia nhập Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan với tư cách là giám tuyển nghệ thuật Hoa Kỳ, và một trong những trình bày được hoan nghênh nhất của ông tại tổ chức này là triển lãm “Hội họa và điêu khắc New York: 1940-1970”, mở cửa vào năm 1969 và giới thiệu 400 tác phẩm của các nghệ sĩ liên quan đến Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng, Hội họa Trường Màu, Nghệ thuật Đại Chúng và Chủ Nghĩa Tối giản.

Jackie Kennedy Onassis is escorted by Henry Geldzahler, Cultural Arts commissioner of New York, as they arrive in Washington for a rally to save New York City’s Grand Central Station, April 17, 1978. They were among a delegation who traveled by train to publicize their campaign. (AP Photo/Suzanne Vlamis)

Nhà giám tuyển này đã trở thành ủy viên của The U.S. Pavilion – Venice Biennale (một gian hàng quốc gia phong cách kiến trúc Palladian, đại diện chính thức của nước Mỹ trong tổ chức nghệ thuật Venice Biennale) vào năm 1966, nơi trưng bày Helen Frankenthaler, Ellsworth Kelly, Roy Lichtenstein và Jules Olitski, và vào năm 1977, ông đảm nhận vị trí ủy viên giám tuyển các vấn đề văn hóa cho thành phố New York.

10. Werner Hofmann (1928 – 2013)

Werner Hofmann, một nhà sử học nghệ thuật trường phái Vienna, nhà văn, giám tuyển và học giả đáng kính về nghệ thuật hiện đại. Năm 1962, ông bắt đầu bước vào thế giới bảo tàng với tư cách là giám đốc sáng lập của bảo tàng Thế Kỷ 20 ở Vienna (nay là bảo tàng nghệ thuật hiện đại Kunst Stiftung Ludwig Wien).

Ông rời vị trí đó vào năm 1969 để trở thành giám đốc của Hamburger Kunsthalle ở Đức và lãnh đạo cho đến năm 1990. Tại đó, Hofmann tổ chức các cuộc triển lãm tác phẩm của Francisco Goya, Philipp Otto Runge, Caspar David Friedrich, và những người khác.

Werner Hofmann. Ảnh: Maurizio Gambarini / picture-league / dpa / AP Images

Hofmann đã nhận được sự công nhận rộng rãi và ca ngợi vì những đóng góp của ông cho lĩnh vực này trong suốt cuộc đời của mình. Ông đã được trao giải thưởng Sigmund Freud về Văn xuôi Khoa học (Scientific Prose) vào năm 1991, và ông đã được trao giải thưởng Aby Warburg dành cho các nhà sử học nghệ thuật Đức vào năm 2008.

Ảnh bìa:

Phòng hội hoạ lớn – the “große melereisaal” (the big painting room) trên tầng 1 của bảo tàng Fridericianum (Kassel, Đức) với bức tranh “Komposition vor Blau und Gelb” (1955) của Fritz Winter, tại triển lãm Documenta đầu tiên (1955), giám tuyển bởi Arnold Bode. Ảnh: documenta archiv / Photo: Günther Becker / Fritz-Winter-Haus, Ahlen

Tác giả: Alex Greenberger, Claire Selvin

Chuyển ngữ: Tam Tam

(Còn tiếp)


 
Back to top